Saturday, October 25, 2014

Tu viện Taktshang 'trú xứ' của Hổ, Bhutan

Trần Nguyên Thắng/ATNT Tours & Travel

Một trong những biểu tượng của Bhutan thường được thế giới biết đến, đó là hình ảnh một ngôi tu viện nằm lơ lửng giữa chừng dốc núi cao. Hình ảnh tuyệt đẹp này đã lôi cuốn hấp dẫn nhiều du khách đến xứ Phật Bhutan để thưởng ngoạn không gian lạ lùng và hiếm có này. Hình ảnh ngôi tu viện chính là tu viện Taktshang ở thành phố Paro. Taktshang có nghĩa là Tiger's Nest hay tạm dịch “trú xứ” của Hổ.


Paro International Airport nhìn từ trên cao. (Hình ATNT Tours & Travel)

Paro, đây không phải là thành phố lớn nhất và cũng không phải là thủ đô của Bhutan, nhưng lại là thành phố duy nhất có sân bay đủ rộng để đón tiếp các chuyến bay quốc tế đến Bhutan du ngoạn. Dù đã tham dự rất nhiều chuyến bay đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng có lẽ chuyến bay từ Kathmandu đến Bhutan là một chuyến bay cho tôi nhiều cảm giác thích thú và khó quên nhất. Hình ảnh mà tôi cho là đẹp nhất chính là lúc bạn may mắn được thưởng ngoạn không gian Himalayas với đỉnh Everest và các đỉnh núi cao khác vượt hẳn lên trên biển mây, nhìn không khác gì các “hải đảo” nằm rải rác trên biển mây trắng toát và bầu trời xanh thẫm.
Trước khi máy bay hạ cánh, bạn sẽ có dịp thấy tài nghệ của các viên phi công Bhutan, giữa hai dãy núi cao bao bọc thành phố họ điều khiển phi cơ bay lượn trên thung lũng Paro. Ðây cũng là lúc mà tôi cho là hình ảnh đẹp thứ hai mà bạn có thể thưởng thức từ trên máy bay, nhưng lúc này lại cho bạn cảm giác rất là thích thú, tựa như bạn là chim bay lượn giữa không trung. Hình ảnh những thảm ruộng xanh tươi bên dưới thung lũng, xen lẫn với con đường phi đạo độc nhất của sân bay (dài 2.8km) nằm song song bên 
cạnh con sông Pachu cũng là một hình ảnh độc đáo “chào mừng” du khách. Người ta còn cho tôi biết, tất cả các chuyến bay đến Paro đều phải do các viên phi công Bhutan lái, group này chỉ có khoảng 10 viên phi công có đầy đủ kinh nghiệm để đem lại sự an toàn cho các chuyến bay.
Từ Paro đi về hướng Tây Bắc khoảng 12km là đến khu vực ngọn núi tu viện Taktshang. Phóng tầm mắt nhìn xa, vào ngày trời trong không mây, người ta có thể nhìn thấy chấm nhỏ các ngôi đền hiện lên lưng chừng gần trên đỉnh núi. Nếu bạn thích chụp ảnh thì đừng quên máy ảnh bạn cần có một độ zoom lớn thì mới có hy vọng ghi lại được hình ảnh tu viện Taktshang vào ống kính.


Thác Dakini được xem như dòng suối nước Thánh đổ xuống vực sâu. (Hình ATNT Tours & Travel)

Thành phố Paro ở trên độ cao 2,100m (so với mực nước biển), còn Taktshang nằm trên triền một núi cao hơn Paro gần 900m (có nghĩa tu viện cao gần 3,000m). Tuy chỉ cao hơn một chút, nhưng cuộc hành trình du ngoạn leo núi Taktshang cũng làm nhiều du khách bỏ cuộc vì con đường lên đến Taktshang rất dài, gập ghềnh cao dốc khó đi, không bằng phẳng chút nào. Bạn cần ba tiếng đồng hồ để lên núi và hai tiếng để xuống núi. Tuy nhiên, giữa đường lên núi có một trạm dừng chân nghỉ mệt. Ðứng ở đây bạn cũng có một khoảng không gian đẹp để ngắm nhìn tu viện Taktshang trên cao, và bạn đã đi được “nửa đoạn đường chiến binh” rồi đó! Nhưng đây cũng là lúc bạn lượng lại sức mình còn có thể tiếp tục cuộc hành trình hay không! Hay bạn sẽ “hạ sơn” cho thoải mái đôi chân. Lúc này lời hát của người nhạc sĩ họ Trịnh bỗng dưng rất thích hợp cho du khách “...Mỏi quá chân ta này, tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi...” Nhưng nếu bạn đã bị “mỏi gối chồn chân” rồi thì xin hãy rất cẩn thận vì khi đi lên núi thì dễ, nhưng 
xuống núi mới quả là một vấn đề nan giải cho hai đầu gối bạn.
Vượt qua khỏi quán nghỉ chân bên đường, chắc hẳn bạn đã ở trên một độ cao 2,600m. Phong cảnh cây cối bên vách núi lẫn bên vực thẳm cũng có đổi thay. Spanish Moss là tên một loại dây leo màu xanh lam nhạt, quấn vào các cành cây và buông rũ xuống như những cành liễu lả lướt tung bay theo gió tạo cho cảnh núi rừng thêm phần thơ mộng. Ở Bhutan loại cây leo này chỉ xuất hiện ở các vùng có độ cao. Một khi bạn đã gặp cây leo Spanish Moss, cho dù lúc này bạn có muốn quay lưng “hạ sơn” xuống núi thì cũng trễ rồi vì “tiến thoái lưỡng nan đi về đều... ngại” cho đôi chân mình. Thôi thì đành miệng niệm “Nam mô A di đà,” mắt dõi theo hình ảnh ẩn hiện của ngôi tu viện để chân vui bước quên đi bao mỏi mệt trên 
đường lên núi.

Tu viện Taktshang nằm trên độ cao hơn 800m giữa hai núi. (Hình ATNT Tours & Travel)

Những gian nan khó nhọc đó bạn sẽ được trả công xứng đáng khi bạn vượt lên đến điểm cao ngang ngôi tu viện. Ðứng từ núi bên này nhìn qua không gian núi bên kia, bạn sẽ thưởng ngoạn cả một không gian thần tiên trần thế trước mặt. Ngôi tu viện Taktshang, “trú xứ” của Hổ sừng sững đứng tựa bên vách núi, những hàng lá phướn Tibet kéo ngang suốt từ đỉnh núi tu viện qua đến nơi bạn đứng, tung bay trong gió. Gần đó một suối thác nước giữa hai ngọn núi tuôn đổ xuống vực sâu tạo ra âm thanh “thác đổ.” Thác không lớn quá nhưng cũng không nhỏ, vừa đủ tạo ra một âm thanh hòa lẫn với không gian hùng vĩ trước mặt khiến lòng du khách tưởng chừng như đang lạc một nơi chốn thần tiên có thật ở cõi trần này. Ðây là không gian đẹp nhất của Taktshang: hình ảnh ngôi tu viện tựa vào vách núi, phong cảnh rừng bao la, núi hung vĩ, đá núi thẳng đứng, thác nước tuôn đổ xuống vực sâu, lá phướn tung bay trên bầu trời xanh ngát, mây gió hòa quyện hồn du khách lại thành một. Không một máy video nào hay camera nào có thể ghi lại không gian tuyệt diệu này ngoại trừ chính đôi mắt và tâm tư bạn. Tôi chợt bừng tỉnh với dấu hiệu “hợp nhất là một” của Phật Giáo Nepal. Sau lần đến viếng thăm tu viện Tashilhunpo của Ban Thiền Lạt Ma tại thành phố Shigatse bên Tây Tạng, ở đây tôi đã có dịp chiêm ngưỡng pho tượng Ðức Phật Di Lặc lớn nhất (cao 27m) trong khu vực Himalayas (Tibet, Nepal, Bhutan) với cặp mắt của ngài qua những nét điêu khắc tuyệt đẹp, trông rất nhân từ và trí tuệ. Từ đó tôi đã yêu thích đôi mắt Ðức Phật Di Lặc ở Shigatse mà tôi cho rằng không có nơi nào diễn tả hơn được nữa cả. Ðến Nepal, tôi gặp lại đôi mắt từ bi ấy. Nét vẽ đôi mắt rất đơn sơ, nhưng lại chứa đựng cả một triết lý sống lý tưởng cho con người. bên dưới giữa hai con mắt là một chữ viết giống như dấu hỏi. Nhưng đây là cách viết theo lối chữ Phạn có nghĩa là số 1, đồng thời là ý nghĩa của sự hợp nhất. Cách viết chữ Phạn này làm nhiều người thưởng ngoạn ngộ nhận xem đó như là một dấu hỏi. Một dấu hỏi của đời sống!
Phía trên giữa trán là một dấu chấm tròn, tượng trưng cho “điểm giác ngộ.” Con mắt trái (từ phía người xem) tượng trưng cho sự từ bi và con mắt phải biểu tượng cho trí tuệ. Ôi, chỉ vài nét vẽ “nguệch ngoạc” đó mà hàm chứa được tất cả ý nghĩa đời sống con người, cho những ai muốn vượt bến mê, phá vỡ vô minh để nương theo sự từ bi trí tuệ. Bi kịch nhất của con người là ảo tưởng, là “tưởng”! Tôi “tưởng” tôi từ bi! Tôi “tưởng” tôi trí tuệ.


Ðôi mắt từ bi trí tuệ của Phật qua nét vẽ của nghệ nhân Nepal. (Hình ATNT Tours & Travel)

Biển mây “tưởng” che lấp cả đỉnh núi Everest và dãy Himalayas. Ngày nay tín đồ Phật Giáo tại Nepal không còn nhiều, nhưng ảnh hưởng Phật Giáo trong nếp sống của người dân Nepal rõ ràng vẫn còn hiện diện. Lumbini (Lâm Tì Ni) của Nepal là nơi Ðức Phật đản sinh, là một trong Tứ động tâm hành hương 
của Phật Giáo trên toàn thế giới. Cũng may cho Nepal, một trong Tứ động tâm này cũng đã ít nhiều giúp đỡ nền kinh tế còn yếu kém của Nepal ngày nay.
Trở lại câu chuyện Taktshang, bạn đang đứng núi bên này nhìn ngóng về không gian núi bên kia với một tâm thức cởi mở nhẹ nhàng, không một chút vướng bận đến mọi chuyện vây quanh. Ðường chim bay nhìn sang ngôi tu viện chỉ là một đoạn đường ngắn ngủi, nhưng không dễ dàng như thế, bạn hãy còn một ít thử thách. Muốn sang bên tu viện, bạn còn phải đi xuống vài trăm bậc thang, xuống tận nơi nước thác đổ và từ đó bạn lại phải leo lên cả trăm bậc thang nữa mới được vào chùa lễ Phật. Phải chăng Ðức Phật hay Ngài Liên Hoa Sinh vẫn muốn thử thách đức tin của bạn!
Tôi hít hơi thở thật sâu vào trong lồng ngực, chậm rãi thở ra bằng miệng. Tôi lần xuống nơi thác nước đổ lúc nào không biết. Thác có tên là thác Dakini. Dòng nước thác được người Bhutan tin là nước thánh, dòng suối nước mà vị bồ tát “Yeshey Tsogyal,” vợ ngài Liên Hoa Sinh ném chuỗi tràng hạt vào tảng đá, và từ đó mở ra dòng suối “cam lồ” tuôn chảy ra cứu độ chúng sinh. Tôi bước vội qua thác cho ít nước thánh thấm lạnh nhẹ vào người, quên đi hết những nhọc mệt của đoạn đường núi vất vả.
Tôi đã đến được nơi “trú xứ” của Hổ!

Một khi bạn đến được nơi cây cầu bắc ngang suối thác nước thánh Dakini là bạn đã đến “Trú xứ của Hổ” Taktshang! Chào đón người du khách là một dãy bậc thang cao có đến hơn trăm bậc để thử lòng tin của mọi người. “Trú xứ của Hổ” không có cổng “tam quan,” chỉ có một điện thờ nhỏ bên hốc đá với hàng chữ “Holy Water,” chắc có một nhánh suối nước thánh nhỏ chảy ngang qua đây. Nhưng quan trọng hơn cả là hàng chữ “No Video-Camera-Cell phone,” thế là bạn đành phải gửi chúng lại cho văn phòng Security giữ hộ trước khi vào chùa. Tu viện không cho phép du khách chụp hình quay phim “hang tổ của Hổ.”

Ngôi tu viện Taktshang và “trú xứ của Hổ” bên sườn núi Taktshang. (Hình ATNT Tours & Travel)

Tu viện Taktshang là một tu viện của Bhutan nổi tiếng trên thế giới nhờ cách kiến trúc chùa cheo leo bên sườn núi cao và các truyền thuyết về chùa từ thế kỷ thứ 8. Như truyền thuyết về Ngài Liên Hoa Sinh cưỡi thần Hổ từ phương xa bay đến, ngài chọn hang động Taktshang làm nơi tu tập và thiền định ở đây. Vì thế người ta còn gọi nơi đây là Tiger's nest (hang Tổ của Hổ), nhưng thần Hổ này không phải là ai xa lạ mà chính là biến thân của công chúa Bhutan TashiKhyiden, vợ của ngài, nên tôi gọi “trú xứ của thần Hổ” cho thêm phần tôn kính.
Lên trên khu vực tu viện, có rất nhiều điện thờ được xây trên sườn núi. Nếu bạn muốn tìm hiểu thật kỹ về ý nghĩa của từng ngôi đền ở đây, bạn phải mất khá nhiều thời giờ. Tuy nhiên bạn cần để ý thời gian Chùa mở cửa cho khách thập phương đến viếng thăm rất giới hạn.
Theo các tài liệu, Phật Giáo Ấn Ðộ được truyền sang các đất nước vùng Himalayas bao gồm Tibet, Nepal, và Bhutan từ những thế kỷ sau công nguyên. Song Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Ðộ khi đến khu vực này đã có những điểm đôi chút khác nhau tùy theo phong tục và tập quán của từng địa phương. Ngày nay Nepal là đất nước hầu như 85% người dân thuộc về tôn giáo Hindu. Phật Giáo còn lại chăng chỉ có ảnh hưởng mạnh tại Tibet và Bhutan!
Người dân Bhutan rất tôn sùng đạo Phật. Họ thờ và tôn kính một vị Guru (giống như Phật-Bồ Tát) là Guru Padmasambhava (Guru Liên Hoa Sinh). Truyền thuyết kể rằng vào thế kỷ thứ 8, một tu sĩ từ Ấn Ðộ sang Bhutan và Tibet truyền giáo pháp Phật Giáo. Tên ông là Guru Padmasambhava, ông được sinh ra từ sự tích tụ tinh hoa của đóa hoa sen bên hồ Dhanokoshi của xứ Uddiyana (thuộc về Pakistan ngày nay). Lúc sinh ra ông đã là một đứa bé 8 tuổi rất thông minh và trí tuệ. Ông được nhà vua Indiabodhi tìm thấy. Nhà vua rất yêu quí và nhận ông làm con. Vua còn dự định nhường ngôi lại cho ông. Nhưng ông đã không nhận ngôi vua mà lại chọn một hướng đi khác.


Một dòng suối nước thánh chảy vào trước cổng chùa. (Hình ATNT Tours & Travel)

Ông tu tập và có phép thần thông biến tướng khôn lường nên rất nhiều ma quái yêu tinh chịu thua và hàng phục ông. Vào thời gian đó, vua Sendha Gyalpo của xứ Bumthang bệnh nặng, mời ông sang chữa bệnh cho vua. Không những chỉ chữa khỏi bệnh cho nhà vua, ông còn giúp nhà vua giải quyết được một số công chuyện triều chính. Cảm kích ơn ông, nhà vua đã gả công chúa Tashi Khyiden cho ông. Ông nhận lời và sau đó biến tướng thành Dorje Drolo (một trong tám hình tướng hiển thị của ông) và Công Chúa Tashi Khyiden cũng thuận ý biến thành dạng thần Hổ theo ông. Dorje Drolo cưỡi thần Hổ đến hang động Taktshang, nhận thấy nơi đây rất thuận tiện cho việc tu tập và thiền định nên ông và thần Hổ đã tạm trú ở đây. Sau một thời gian tu luyện ba năm ba tháng ba tuần ba ngày ba giờ, ông thành tựu trong khả năng có thể hiển thị hình tướng thành tám dạng, có tám danh xưng khác nhau. Mỗi một biểu thị danh xưng của ông đều có một ý nghĩa khác nhau trong triết lý Phật Giáo Bhutan.
Guru Liên Hoa Sinh chọn Taktshang làm nơi xây dựng Phật giáo và tạo ra nhánh Phật giáo Nyingmapa (Ninh Mã) Bhutan. Từ đó Taktshang trở thành một Thánh địa Phật giáo Bhutan và Guru Liên Hoa Sinh được người dân Bhutan tôn kính và thờ, xem ông như là một vị bồ tát bảo vệ che chở và cứu giúp cho họ. Trên điện thờ, tượng của Guru Liên Hoa Sinh luôn luôn được tôn kính đặt bên cạnh tượng Phật Thích Ca Mâu Ni hay Vô Lượng Thọ Phật.
Sự tu luyện thành tựu của ông được nhiều người biết đến, vua Tibet lúc đó là Triden Detsen nghe danh ông, cho vời ông đến giúp đỡ công việc triều chính và Phật pháp. Cũng giống như nhà vua xứ Bumthang, vua Triden Detsen đã gả một vị công nương tên Yeshe Tsogyal cho ông như một lời cám ơn. Yeshe Tsogyal là người sau này đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc ghi chép lại những giáo lý mà ông đã thuyết giảng. Có thể ví bà như ông Anan đã ghi chép lại những lời giảng của Phật Cồ Ðàm cho chúng sinh. Công lao của Guru Liên Hoa Sinh rất lớn đối với các đất nước trên dãy núi Himalayas.


Tranh vẽ Guru Liên Hoa Sinh, thần Hổ Tashi Khyiden, công nương Yeshe Tsogyal và tám hình tướng hiển thị của ngài. (Hình ATNT Tours & Travel)

Về “hang Tổ của Hổ hay Trú xứ của Hổ” (Tiger's Nest), đây là một hang động nhỏ nằm trên triền núi do các khe nứt tạo thành. Một cầu thang nhỏ dẫn du khách dẫn xuống đến nơi thiền tọa của Guru Liên Hoa Sinh và Hổ. Từ hang động nhỏ bé này du khách có thể phóng tầm mắt nhìn xuống không gian thung lũng Paro Valley xanh ngát rừng cây xanh thẫm, đồng ruộng xanh tươi và các dãy núi hùng vĩ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. Guru Liên Hoa Sinh chọn nơi đây thiền định thì quả là không có gì đáng ngạc nhiên!
Bên trên hang động Tiger's Nest là ngôi điện thờ nhỏ dành cho Guru Liên Hoa Sinh. Gần đó, một điện thờ chính của tu viện có tên là “Dorji Drolo Shrine.” Ðây có lẽ là nơi thu hút tôi nhất tại Taktshang. Leo lên ít bậc thang, vừa cởi giầy bước chân vào điện thờ, tôi sững người vì các pho tượng lớn và rất đẹp! Vô Lượng Thọ Phật với đôi mắt từ bi trí tuệ là tượng lớn nhất ở giữa, bên trái ngài là tượng Guru Liên Hoa Sinh trong tư thế tọa thiền, bên phải là tượng Dorje Drolo đang đứng trên lưng thần Hổ, hai tay ngài cầm các bảo khí trong tư thế thị uy đánh đuổi đi sự sân hận yêu tinh ma quái trú ngụ trong tâm thức con người. Chân thần Hổ giẫm đạp lên một người nam (tượng trưng cho sự giận dữ) và một người nữ (tượng trưng cho sự đố kị ghen tuông). Sau cùng là hai pho tượng Vajrasattva lớn, được dựng ở hai bên tả hữu điện thờ. Vajrasattva tượng trưng cho sự hợp nhất từ bi và trí tuệ, gồm một người nam và một người nữ trong tư thế mặt đối mặt, chân chồng chân, tay cầm các bảo khí để hàng phục ma quái xấu xa. Hình ảnh này chắc hẳn không quen mắt với các tông phái Phật giáo khác. Theo tôi, mỗi một tông phái tôn giáo cho dù có cùng một đức tin, nhưng họ đều có con đường đi khác nhau miễn sao “con đường” đó chỉ là phương tiện đưa tất cả con người về đến cùng một điểm giác ngộ - giải thoát khỏi bể khổ trầm luân của trần thế. Tuy nhiên, các con đường đi này đều có những phép tắc kỷ luật riêng của nó mà mọi người phải tuân theo, không được lạm dụng để thỏa mãn cái “ngã” của mình. Ðức Phật dạy chúng sinh về vô-ngã, nhưng con người lạm dụng ngôn từ “vô ngã” để thỏa mãn “bản ngã” thì “hằng hà sa số”!
Ðiều này làm tôi chợt nhớ đến một câu chuyện thiền thâm thúy. Một vị học giả uyên thâm nghe danh 
tiếng một vị thiền sư. Ông quyết định đến thăm để có cơ hội tranh luận về sự uyên thâm của ông. Vị thiền sư mời ông ngồi và rót nước trà mời ông. Vị thiền rót nước trà đầy tràn cả ly nhưng hình như ông vẫn không biết, cứ mải tiếp tục rót thêm nước trà vào ly. Vị học giả không chịu được, bèn nói với vị sư, 
“Ngài có biết ly trà đã tràn đầy rồi không”! Vị thiền sư nhẹ nhàng trả lời, “Như ngài thấy đó, ly nước đã tràn đầy nên tôi cố rót thêm trà mời ngài mà vẫn không được, nước trà tràn ra ngoài vì bên trong ly đã có đầy nước, ly không còn chỗ chứa ít nước trà tôi muốn mời ngài!” Một khi thành kiến, tri kiến đã đầy ắp trong trí óc, còn đâu khoảng trống dành cho một chút suy tư khác! Tôi cố gắng bỏ bớt đi những thành kiến trong đầu để tiếp nhận thêm những điều mới mẻ trong nếp suy tư của Phật Giáo Bhutan và Tibet. 
“Trú xứ của Hổ” đòi hỏi tôi phải có một tâm tư như thế!


Cụ già Bhutan lưng đã còng nhưng vẫn leo núi vào thăm “trú xứ của Hổ.” (Hình ATNT Tours & Travel)

Trên đường xuống núi, tôi chợt bắt gặp một hình ảnh khó phai nhòa trong ký ức. Một cụ bà lưng đã còng 90 độ, cụ đi lên núi ngược chiều với tôi, tay cụ chống gậy để đỡ lấy chiếc lưng còng. Cụ lững thững lên xuống mấy trăm bậc thang để vào thăm “Trú xứ của Hổ.” Tôi ngớ ngẩn nhìn theo bước đi của cụ, hình ảnh cụ cho tôi một cảm nhận khó diễn tả bằng lời. Không hiểu cụ nguyện cầu điều gì nơi Vô Lượng Thọ Phật! Cụ cầu khấn điều gì ở Ðức Liên Hoa Sinh! Cụ mong mỏi điều gì nơi “Trú xứ của Hổ”! Dáng đi lững thững khoan thoai thong thả với chiếc lưng còng của cụ, ngay trong sát na đó cụ cho tôi cảm 
nhận sự biến thân của Ðức Quán Thế Âm. Ngài không giảng dạy cho tôi bằng ngôn ngữ, Ngài dạy tôi 
bằng hình ảnh của đức tin, của ý chí, của sự vươn lên bất chấp tuổi tác con người. Ðức tin và ý chí không có tuổi, chỉ có thân-tạm-bợ con người có tuổi với thời gian. Tôi cúi đầu chào và lòng thầm cám ơn cụ. Cụ mỉm cười chào lại mà chân vẫn không ngừng bước. Hình ảnh này cũng chợt làm tôi nhớ đến ngọn núi Linh Thứu bên Ấn Ðộ, nơi Ðức Phật đã từng giảng kinh Hoa Nghiêm và ngày nay là một thánh địa hành hương của tín đồ Phật Giáo. Núi Linh Thứu không cao và tương đối dễ đi. Một ngày nọ, sau buổi lễ trên đỉnh Linh Thứu các cụ già lần lượt đi xuống núi, chỉ riêng một nhà sư trẻ khỏe mạnh đã không đi bộ xuống với đoàn, nhà sư ngồi kiệu cho người võng xuống núi. Hình ảnh đó đã cho tôi thấy đường vào địa ngục ở ngay ngọn núi thiêng Linh Thứu. Ôi, thiên đàng địa ngục đều nằm ở một tấm áo khoác ngoài! Vượt qua khỏi thiên đàng địa ngục phải chăng chỉ có thánh nhân!
“Trú xứ của Hổ” còn rất nhiều truyền thuyết về các phép lạ của các vị Guru nối tiếp Guru Liên Hoa Sinh. Chùa được xây vào năm 1692 và được trùng tu lại nhiều lần vì nhiều lý do như động đất, hỏa hoạn, và cũng vì sự vô thường của thời gian. Lần trùng tu gần nhất vào năm 1958. Các cột chùa bằng gỗ đã được thay thế bằng các viên đá thẻ. Nhưng mái chùa vẫn được dùng gỗ để giữ vẻ xưa cổ kính. “Trú xứ của Hổ” trở thành một biểu tượng tôn giáo, văn hóa và danh địa của xứ sở mưu cầu tổng sản lượng “hạnh phúc” cho người dân. Song song với sự nổi tiếng địa danh “Trú xứ của Hổ Taktshang,” Bhutan's Dzong là một điểm văn hóa và kiến trúc về thành lũy, cung điện, tu viện hoàn toàn khác lạ mà chúng ta không thể thiếu khi đi du ngoạn Bhutan.


Sunday, October 12, 2014

Vè và Đối


Trong giờ sinh học, thầy giáo đang giảng bài thì có hứng và ra 1 vế đối :
“Con bò cạp cạp con bò cạp, cạp đúng chỗ bò mà bò đúng chỗ cạp”.

Một học sinh ấp úng, thầy mời đứng dậy, cậu học trò đối :
“Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật đúng chỗ sinh mà sinh đúng chỗ vật”.
Thầy đỏ mặt tía tai, một học trò khác :
“Anh tiểu thương thương chị tiểu thương, thương đúng chỗ tiểu mà tiểu đúng chỗ thương”

Anh học trò khác thêm vào chút xíu:
"Anh cà phê cà chị cà phê, cà đúng chỗ phê mà phê đúng chỗ cà".


Thầy Giám Thị Huy Hồ đứng trước cửa lớp quát lớn:
"Anh Tước Bùi bùi chị Bùi Tước, tước đúng chỗ bùi mà bùi đúng chỗ tước".

Saturday, October 11, 2014

Chốn Vắng (Kỳ 111-120)

Kỳ 111
Giọng nữ ca sĩ méo đi vì cuốn băng tồi vì máy hỏng hoặc vì những bài hát cũng giống mùa hoa phải tàn úa theo thời gian. Câu hát cũ xiêu vẹo như bước chân đám hành khất trên con lộ vắng và đôi mắt người đàn bà có gương mặt đầy vết nhám nhìn anh tựa như cặp mắt thủy tinh của một pho tượng què cụt trong ngôi miếu hoang đổ nát ven đường.
- Nào, uống gì? Chị ta cất tiếng hỏi.
- Cho tôi ly nước chanh. Hoan đáp.
- Khẩu vị đàn bà. Chị ta bình luận.
Hoan không trả lời. Chị ta quay lưng vào trong quầy pha nước. Chiếc thìa khua lanh canh, lanh canh. Lúc đó, Căng bước vào:
- Anh uống gì nữa vậy?
- Nước chanh.
- Chẳng cần phải uống cho ỏng bụng. Chúng ta ngồi đây vài phút nữa thôi.
Nói đoạn, anh quay về phía người đàn bà nói:
- Dẫn chúng tôi đi, Thu Cúc.
Gương mặt tàn úa quay ra:
- Ði ngày?
- Phải.
- Chưa đủ mùi hay sao?
- Chưa đủ.
Căng đáp và sau một thoáng ngẫm nghĩ hỏi tiếp:
- Chỗ quen thuộc sao đêm qua không báo động?
- Tôi đã nói rồi, óc đặc thì chết.
Người đàn bà đáp đoạn bưng ly nước chanh đặt trước mặt Hoan.
Căng nhìn chị ta hồi lâu rồi cất tiếng à...:
- Nhớ rồi, nhớ rồi... Nhưng lúc đó tôi chẳng lường được...
Người đàn bà cười, cặp môi thưỡi ra:
- Phải học lấy chữ lường...
Ðoạn chị ta thong thả bước trong gian phòng, vẻ như một cô đào trước màn trình diễn, vừa đi vừa cất tiếng ngâm nga:
... Thế gian ai học được chữ lường. Dẫu rằng dày dạn chín mười phương.
Vẫn còn một lối chưa thông tỏ...
Căng ngắt lời:
- Thôi, chọc ghẹo thế đủ rồi. Gọi lão gù sang trông hàng rồi đưa chúng tôi đi.
Người đàn bà không tỏ ra phật ý cũng chẳng tỏ ra ưng thuận, chị ta lẳng lặng rời khỏi gian hàng qua đường sang dãy phố bên kia. Ở đó, chị ta tiếp tục đong đưa đôi vai gầy và tấm thân cứng ngẳng trong một ngõ hẹp có rất nhiều tấm tôn chìa ra như những mái hiên. Căng trầm ngâm nhìn theo và nói:
- Ðêm qua cô ả cất tiếng mời chúng ta ăn mực. Ðó là cách báo hiệu hiểm nguy mà tôi quên khuấy mất... Lỗi tại tôi, óc tôi lú quá rồi...
Hoan hỏi:
- Ăn mực là dấu hiệu rủi ro?... Lần đầu tôi nghe chuyện ấy.
Căng khoác tay phác một cử chỉ bất bình:
- Lạ thật, chuyện vặt ấy sao anh không biết?... Người ta thường vẫn nói: Ðen như mực. Ðối với khách chơi hoa, nói như vậy có nghĩa là bể ống khói hoặc bị lũ ma cô hành hung. Tôi biết điều này nhưng vì chưa từng bị trầy da sớt thịt nên vô tình quên mất... Quả tình, Thu Cúc rất tốt với chúng ta...
- Thu Cúc?... Tôi trông người đàn bà này chẳng có vẻ Thu Cúc lẫn Ðông Cúc... Vì sao chị ta có cái tên điệu đàng như vậy?
- Anh nhầm. Chị ta vốn là con nhà tử tế và cái tên ấy là do cha mẹ đặt cho . Ðáng lẽ chị ta phải là bà chủ, còn hai con đàn bà vẫn ngủ với chúng ta chỉ đáng làm đầy tớ... Nhưng cuộc thế xoay vần... Một người luôn may mắn như anh chắc không hiểu được cái chữ oan nghiệt đó...
Hoan lặng thinh. Căng có lý. Thực ra cuộc sống của anh không thăng trầm như nhiều kẻ khác. Anh chưa từng ra tù vào tội, chưa từng bị đói khát, hành hạ, sỉ nhục, chưa từng lết trong rãnh bùn của cuộc mưu sinh... Căng nói tiếp:
-Thu Cúc vốn không đẹp nhưng ở tuổi xuân chị ta sang trọng và duyên dáng. Biết gảy đàn, biết hát, biết đánh bóng và chơi bài. Nếu trời thương hẳn người đàn bà ấy chẳng phải kéo dài kiếp sống nơi đây... nhưng có mấy người được trời thương? Dù Chúa hay Phật tình thương cũng chỉ đủ phát cho con số lẻ, còn đa phần chúng sinh ở ngoài rìa ơn mưa móc.
Nói tới đó, Căng ngoảnh đầu ra cửa:
- Thu Cúc đã quay lại với lão gù, chúng ta đi thôi.
Hoan đứng lên. Câu chuyện khiến anh tò mò. Anh chăm chú nhìn người đàn bà đang tiến đến trước mặt mình dò tìm một lịch sử bí ẩn phía sau hình dạng tầm thường ấy. Chị ta cúi đầu khi bước sang đường. Tấm khăn phủ in những hình kỉ hà xen những bông hoa lớn với gam màu quyến rũ. Cổ đeo sợi dây mảnh bằng bạc. Tất cả có vậy thôi. Một cách trang điểm giản đơn, độc đáo. Ngoài ra, anh chẳng thấy gì khác biệt. Quần áo chị ta mặc là thứ quần áo bình thường của những người đàn bà cỡ tuổi bốn mươi. Ði sau chị ta là một lão già thấp đen có bướu lưng. Một người gù đúng nghĩa. Gù dị tật như Quasimodo trong cuốn Thằng Gù ở nhà thờ Ðức Bà của Hugo, nhưng với gương mặt choắt, chòm râu dê và cặp mắt ti hí kiểu Mông Cổ. Lão gù bước những bước ngắn nhanh thoăn thoắt, và luôn luôn giữ đúng cự ly cách người đàn bà chừng hai bước chân.
Căng đứng đón họ ngay trước cửa:
- Anh trông hàng nhé, chúng tôi đi ngay đây.
Lão gù gật đầu:
- Ðược, Thu Cúc sẽ đưa các anh đi... mọi sự ổn cả thôi.
Lão bước vào gian hàng. Căng kéo Hoan đi theo người đàn bà. Họ đi xuôi dãy phố chừng hai trăm thước đoạn rẽ vào một ngõ nhỏ còn hẹp và lởm chởm hơn cái ngõ nhỏ nơi người đàn bà đi gọi lão gù. Một thứ ngõ được tạo dựng bởi những căn nhà lắp ráp từ đủ thứ vật liệu: mảnh tôn, ván gỗ, giấy lợp, bìa các-tông, săm lốp xe ô-tô cũ. Căn ngõ đó dài đặc với rất nhiều ngả rẽ khiến Hoan lo ngại. Anh chắc nếu bị bỏ rơi ở nơi đây anh sẽ chẳng tìm được lối ra và sẽ làm mồi cho một băng cướp ngày hoặc một bọn chém mướn nào đó...
Mình thật dại dột... chẳng lý do nào khiến ta phải dấn thân vào chốn này.
Căng đi trước, chừng như đoán được ý nghĩ của anh nên quay lại:
- Ðừng sợ, tôi biết cả lối vào lẫn lối ra...
Ðoạn anh nhe răng cười và nói thêm:
- Có thể tôi rành khu này hơn cả lũ trộm cắp. Cứ yên tâm.
Họ đi như thế chừng nửa giờ và sau rốt, anh nhìn thấy cây cầu thang quen thuộc, cây cầu thang ghép bởi những tấm gỗ chưa bào thường rên rỉ oằn oại dưới những bước chân nặng trĩu của anh.
Người đàn bà dừng lại trước chân cầu thang:
- Tôi về được chứ?
Căng gật:
- Cũng được...

Kỳ 112
Nhưng chị ta vừa đi được vài bước, Căng gọi giật lại:
- Thu Cúc, hôm nay xuống đòn ân oán giang hồ, có muốn xem thì ở lại.
Chị ta gật:
- Ra thế... ờ, thì xem.
Nói xong chị vòng ra phía cầu thang chui vào căn buồng bên dưới. Họ nghe tiếng kẹt cửa, tiếng dép lê trong phòng. Căng kéo tay Hoan lên cầu thang:
- Nào, theo tôi.
Lần đầu Hoan nhìn quang cảnh căn nhà chứa dưới ánh sáng ban ngày và sự xấu xí bẩn thỉu khiếp hãi của nó làm anh rùng mình. Căng đang nghĩ chuyện gì đó, im lặng. Khi tới trước cánh cửa buồng anh ta mới chợt như sực tỉnh cơn trầm tư và giơ tay gõ:
- Ai đấy?
Có tiếng hỏi vọng ra. Căng không trả lời nhưng dang tay đập mạnh khiến cánh cửa rung ầm ầm.
- Chờ tôi chút xíu...
Lại có tiếng người đàn bà cũ vọng ra. Có tiếng guốc lê vội vàng và sau đó, cửa mở. Người xuất hiện trong đó là cô gái điếm thường qua đêm với Căng. Cao lớn, gương mặt lầm lì, mắt xếch, tóc đen và rậm, trông cô ta lực lưỡng hơn đồng nghiệp nhiều. Chẳng mảy may tức giận, cô ta giương mắt nhìn Căng:
- Hôm nay anh rảnh sao?
Căng gật:
- Rảnh... không rảnh cũng bỏ việc. Con Hồng có trong kia không đấy?
Cô ta gật đầu:
- Có. Chị ấy đang ngủ.
Căng bảo:
- Ðược rồi. Trở lại giường của em đi, lát nữa sẽ có việc.
Người đàn bà đáp:
- Em chờ.
Giọng nhẹ nhàng êm dịu trái ngược hoàn toàn với thân hình vạm vỡ. Hoan hỏi Căng:
- Tại sao lại là Hồng? Cô ta vẫn nói với tôi tên cô ta là Thanh Huệ?
- Nay nó là Thanh Huệ, ngày mai nó là Bích Hồng ngày kia nó là Kim Chi ngày kìa nó là Ngọc Diệp... làm sao anh biết được tên thật của một con điếm? Nhưng thôi, quên cái chuyện tầm phào ấy đi, vào đây với tôi.
Anh ta hất tấm màn kéo Hoan vào gian buồng bên phải, gian buồng của người đàn bà có đôi mắt chó giấy, cái lưỡi ma quỷ có tên Thanh Huệ, thứ hoa thanh khiết nhất trong các loài hoa... nàng Thanh Huệ của anh đang ngủ, gương mặt lau phấn son bợt như mặt kẻ hậu sản thiếu ăn, miệng há hốc để lộ những chiếc răng thưa thớt. Mấy lọn tóc xõa trên mặt gối thứ gối trắng ngả màu loang lổ vết nước dãi không giặt sạch. Tấm vải trải giường nhàu nát lâu ngày chưa thay và mấy tấm khăn bông cuộn như nùi giẻ lau dưới chân giường...
Mình đã từng nhiều lần nằm trên chiếc giường kia, với người đàn bà xấu xí dơ dáy kia, da thịt mình trong da thịt cô ta và hơn thế nữa...
Hoan rùng mình. Nỗi hổ thẹn nhục nhã trào lên khiến mặt lẫn gáy anh nóng bỏng. Nhưng Căng không để cho anh có thời gian tra vấn lương tâm. Cúi xuống giường, anh ta nắm cổ cô điếm dựng dậy:
- Mở mắt ra... mở mắt ra, con đĩ.
Người đàn bà oằn oài dưới bàn tay Căng, miệng làu nhàu:
- Ai thế? Ai thế? Làm gì mà ngậu lên thế?
Nói xong cô ta lại đổ kềnh xuống giường vì không cưỡng lại được cơn buồn ngủ.
- Mở mắt ra.
Căng quát to:
- Mở mắt ra. Mày ngủ thật hay ngủ vờ? Dù thật hay vờ tao cũng sẽ lôi mày dậy.
Nói đoạn, anh dang tay tát vào mặt cô ta năm sáu cái liền. Tát phải rồi tát trái, mặt người đàn bà lật như tấm bánh rán đảo trong chảo mỡ. Hoan sững sờ. Anh không dè Căng cư xử như vậy. Lần đầu đưa Hoan tới đây anh ta đã mơn trớn cô điếm thật khéo léo nhẹ nhàng:
“Này em, giao bạn vàng của anh cho em đấy nhé... hãy trổ tài chiều anh ấy hết ga hết số, bọn anh không để em thiệt đâu...”
Căng nói vậy đoạn vuốt lưng cô ta với cử chỉ âu yếm của tình nhân.
- Bốp, bốp...
Hai cái tát cuối cùng, như dấu chấm cho câu gọn gàng chuẩn mực về ngữ pháp. Mặt người đàn bà đỏ dừ, vì quá đau vì quá đột ngột cô ta không thể cất tiếng kêu cũng không tìm được cách chống đỡ, cô ta buông mình như tàu cải héo dưới bàn tay Căng. Khi anh ta dừng lại, cô ta mới mở được mắt ra. Ðưa tay ôm mặt, người đàn bà rên rỉ:
- Ôi trời, đau quá mẹ ơi...
- A, mày cũng biết kêu mẹ cơ à? Mày cũng biết đau à? Vậy khi mày gài bẫy cho bọn cá trấn tiền của người ta khác có biết người ta cũng đau xót như mày hoặc còn hơn mày không?
Gương mặt người đàn bà bắt đầu hiện lên những nốt lằn tay, các vạch đỏ nổi gờ chồng chéo nhau trên cặp má không lưỡng quyền. Chiếc cằm cô ta như mũi tàu thủy, nhọn hoắt lì lợm dưới đôi tai chuột đeo hạt trai giả. Hoan nhìn rõ những sợi gân máu phập phồng trên cổ cô ta. Anh muốn bảo Căng dừng tấn trò tại đây và đi về nhưng anh biết điều đó là bất khả. Anh đành đứng nhìn màn kịch tiếp tục diễn ra trên cái sân khấu thảm thê anh vừa đóng vai kẻ chứng kiến vừa dễ bị ngờ là kẻ chủ mưu một cách oan uổng. Cảm giác đó khiến anh bứt rứt.
Căng vẫn nắm chặt gáy người đàn bà, ghé sát vào mặt cô ta tra vấn:
- Mày được bao nhiêu phần trăm, thằng chủ mày bao nhiêu phần trăm trong sáu cây vàng? Nói ra không tao đập cho nát mặt. Thằng chủ mày không dám bênh vực còn thằng cá kia xong việc cắp đít cao chạy xa bay rồi... giờ đây nó đã diện sắc phục đeo lon đeo hàm trở lại làm người chiến sĩ bảo vệ an ninh người cảnh sát của nhân dân... mày có gào lên giữa bốn bức tường này cũng vô ích.
Cô điếm im như thóc. Hoan biết Căng có lý. Cô ta không dám và không thể kêu cứu. Tất cả những kẻ sống cuộc sống giang hồ đều phải chịu đúng luật chơi. Họ cướp bóc kẻ khác trong bóng tối và bị kẻ khác cướp bóc hoặc truy sát cũng trong bóng tối. Họ có thể thắng bại, sống hay chết nhưng không thể kêu cứu. Thế giới đen hệt đời sống của thú hoang. Không có tín hiệu S.O.S. Nhung nhúc người và hoang vu hơn sa mạc. Ở đó, tình thương là thứ thừa. Vậy mà anh cảm thấy thương hại người đàn bà đã gạt anh vào tròng, đã lạm dụng lòng tốt của anh một cách giảo quyệt và tàn nhẫn. Cô ta đang vặn vẹo toàn thân dưới những ngón tay sắt của Căng, cố sức gỡ nắm tóc đang bị kéo giật về phía sau và càng lúc càng xoắn lại:
- Trả lời tao, bọn chó thí cho mày bao nhiêu?
- Ối chao, ối chao ơi...
 
Kỳ 113
Tiếp theo
Cô ta tiếp tục rên rỉ, coi đó là phương sách duy nhất có thể cứu gỡ trong tình cảnh này. Sự im lặng thú nhận. Nhưng Hoan không thấy căm giận kẻ tội đồ:
Rõ ràng cô ta gài bẫy hại ta. Nhưng đó là sự mưu sinh của kẻ cùng đường. Hoàn toàn chẳng giống trò lừa gạt của mẹ con bà Kim Lan ngày trước...
Anh nhớ màu rượu vang trong những chiếc ly thủy tinh Bô-hêm, hai mẹ con bà trưởng cửa hàng xúng xính váy áo và cái kí ức khiến anh động tâm trước người đàn bà rạc rài khốn khổ đang bị hành hạ trước mắt mình.
Không, ta chẳng có chút uất hận nào trong sự rủi ro này... ta có mất một số tiền, nhưng chẳng ai xúc phạm danh dự, làm tổn thương tâm hồn ta. Cái đó, mới chính là thứ cần bảo trọng. Ta không thể đứng ở đây, chứng kiến màn kịch tồi tệ này...
Anh cất tiếng:
- Này Căng, tôi có việc.
- Không.
Anh ta nói gần như quát:
- Anh không cần bố thí lòng nhân đạo với loại chó cái này. Cách đây nửa năm, nó cũng đã lừa một khách chơi cho bọn ma cô trấn. Ðể tôi ra đòn cho nó biết luật lệ.
Hoan nhắc lại:
- Tôi có việc. Tôi phải về.
Căng cười nhạt:
- Anh không thể về theo lối quen vì sẽ chạm trán nhiều người. Giờ đang lúc nửa trưa và gần hết dân thành phố biết mặt anh. Còn lối vòng qua hẻm ngoài Thu Cúc với tôi chẳng ai đưa anh đi nổi... liệu anh có dám mò mẫm trở về một mình chăng?
Hoan im lặng. Anh biết anh không thể. Anh là kẻ có máu mặt trong thành phố, chắc chắn những ổ lưu manh trộm cắp lẫn những gã tài tử đói ăn đều muốn chờ cơ hội tốt để ra tay. Là một ông chủ lớn nhiều khi cũng phiền phức...
Thấy Hoan không nói gì thêm, Căng hạ giọng tiếp:
- Thôi được, lát nữa chúng ta sẽ về... tôi kết thúc trò chơi thật nhanh cho anh được giải thoát.
Dứt lời, anh ta cất tiếng gọi:
- Thu Cúc, Thu Cúc...
- Tôi đây.
Có tiếng đáp tức khắc và người đàn bà trùm tấm khăn hoa bước vào.
- A... a... a... a...
Một tiếng thét xé lên, âm thanh chói sắc như lưỡi lam rạch đôi màng nhĩ và Hoan thấy cô điếm đang quằn quại dưới bàn tay Căng vụt chồm về phía trước. Bằng bước nhảy của loài hổ vồ mồi cô phóc tới chụp cả hai bàn tay lên gương mặt kẻ mới đến. Những móng tay sắc nhọn cào roạt một tràng khiến Thu Cúc hét lên. Chị ta lùi lại một bước để tránh đối thủ và trong động tác ấy, chiếc khăn trùm đầu bị giật tung phơi cái sọ trơ trụi không sợi tóc:
- U ú ú...
Thu Cúc rú lên. Chị ta ngớ ra trong một giây vì hổ thẹn và sau khi biết chắc chắn cái đầu trọc lóc của mình đã bị phơi trước mặt kẻ khác cơn hoảng hốt đó biến thành thù hận điên cuồng. Mặt chị ta ngả trắng như vôi, những vết nám rắc như đám đậu đen trên gò má, cặp mắt lạnh lẽo và u sầu thường nhật bỗng long sòng sọc như mắt loài cọp dữ:
- Con đĩ Hồng...
Người đàn bà thong thả buông từng lời, và Hoan nhìn thấy mắt chị ta dâng lên dòng lũ thù hận đã tích tụ qua bao nhiêu năm tháng.
- Con đĩ Hồng, giờ mày sẽ biết tay tao...
Chị ta tiếp tục nói rất khẽ, thong thả tách từng âm tiết. Cặp môi tô son khẽ nhếch lên cười. Những vết cào rớm máu chạy rần rần như đám giun bò trên gương mặt. Bất chợt, từ bức tường giáp tấm màn che, người đàn bà nhảy một bước phóc lên giường. Chị ta chồm lên tấm thân đối thủ, dằn cô ta xuống, bóp cổ cô ta với hai bàn tay xương xẩu như tay đàn ông, những ngón tay dài móng vuông và vàng khè:
Ðó là những bàn tay của người đã từng chơi bóng...
Hoan thoáng nghĩ khi chứng kiến tấn kịch. Căng há hốc mồm, anh không ngờ cô điếm Hồng rẫy được khỏi những ngón tay cứng như sắt nguội của mình và rạch lên mặt Thu Cúc những móng vuốt dữ dằn như thế. Trong tay anh, còn lại nắm tóc xơ xác. Hai người đàn bà lao vào cuộc xâu xé. Hai kẻ khốn cùng. Không chồng không sinh nở. Một người đầu trọc lóc người kia để lại những nắm tóc xác xơ trong tay kẻ hành hung... Căng, sau khi qua cơn thảng thốt bắt đầu tức giận. Anh ta thả nắm tóc trong tay xuống sàn:
- A, con khốn nạn... mày dám làm như thế trước mắt bố mày đây...
Nghiến răng lại, Căng giật đầu cô điếm Hồng ra phía sau. Tức khắc, Thu Cúc nắm tay thụi xuống mặt cô ta.
- Thôi, thôi đi...
Hoan cất tiếng quát. Anh không ngờ mình có khả năng quát to như vậy:
- Dừng tay lại... tôi không muốn xảy án mạng ở đây. Hai người không dừng tay lại tôi sẽ gọi cảnh sát, rồi muốn ra sao thì ra.
Chưa bao giờ anh nói to như thế trong đời. Anh, con trai ông giáo Huy, được dạy từ nhỏ rằng chỉ những kẻ lố bịch mới làm ầm ì trước mặt người thứ ba. Vậy mà tiếng quát của anh có hiệu lực tức thì. Căng bảo Thu Cúc:
- Thôi, buông nó ra.
Thu Cúc giáng nốt quả đấm cuối cùng xuống gương mặt nhòe nhoẹt máu của cô điếm. Máu vẫn tiếp tục chảy từ cánh môi rách và bên lỗ mũi dập nát. Thu Cúc nhặt mảnh khăn dưới đất trùm lên đầu. Chị ta quay mặt vào tường chẳng nhìn ai. Rồi ra đi. Chị biến rất nhanh sau tấm màn. Không nghe thấy cả tiếng chân trên cầu thang. Căng bảo Hoan:
- Về thôi.
Ðoạn anh ta quay lại cô điếm nằm rũ rượi như cái xác vô hồn:
- Hãy nhớ kĩ lần này đồ chó cái... trấn lột của thiên hạ cũng không quá dễ đâu.
Chùi tay vào đùi, anh ta nói vọng sang ngăn buồng bên kia:
- Anh về đây, bữa khác gặp.
Tiếng người đàn bà đáp lại:
- Dạ, em chờ...
Hai người đi xuống, tiếng chân họ nện trên cầu thang nghe rõ mồn một. Khu này, vọng động của phố phường mơ hồ tan trong không gian hiu quạnh. Cư dân túa các ngả, đoàn quân nô dịch của phố phường, những người bới rác và móc cống, những kẻ mua lông gà lông vịt giấy vụn đồng nát bàn là bếp điện hỏng cốc chai vỡ và một trăm lẻ một thứ đồ táp nham phế thải của cuộc sống nơi đô thành. Ban ngày, chỉ còn lại những người già không làm nổi việc gì, những kẻ tàn tật hoặc những người ngớ ngẩn điên khùng. Những kẻ khốn khổ đó chui rúc trong bóng tối hoặc ngồi lật lưng phơi nắng trước cửa. Mấy bà già da mốc thếch như da trăn rờ rẫm vãi từng hạt cơm quanh bu gà. Hoan biết buổi tối con cháu họ sẽ đem bu gà đó ra chợ. Ðoạn khu chợ chỉ họp lúc nhọ mặt người, bán vội vàng qua quýt cho những kẻ ít tiền, những gã móc túi hoặc đám thi sĩ nổi hứng bất kì lúc hoàng hôn... khu ngoại ô buồn thảm phơi dưới mắt Hoan. Ðã bao lần anh qua đây nhưng hôm nay là lần đầu tiên anh nhìn nó dưới ánh mặt trời. Bỗng dưng anh buồn. Chân tay anh trở nên đờ đẫn. Những ý nghĩ lướt qua óc anh u ám như những đám mây đen chầm chậm lướt qua khung trời mùa đông.

Kỳ 114
Anh nhận ra mình đã đến trước quán cà-phê Thu Cúc với lão gù. Lão đang đứng trước cửa, đưa cặp mắt ti hí nhìn anh. Căng đã ngồi hút thuốc phì phèo. Không thấy Thu Cúc. Lão gù hỏi:
- Hai anh dùng gì?
- Cho ấm trà sen đi... a mà thôi, sáng nay tụi tôi vừa uống trà Hồng Hoa rồi. Cho hai tách cà-phê nóng, thứ hảo hạng, pha cà-phê đểu tôi hắt ra đường...
Căng đáp, giọng nửa bỡn cợt nửa đe dọa. Hoan hỏi:
- Quán này có mấy thứ cà-phê?
Căng đáp:
- Ít nhất cũng năm loại, phải không anh gù?
Lão gù xác nhận:
- Chính xác. Năm loại.
Căng đắc ý kể:
- Trước hết là loại cà-phê rửa bát loãng ngoét bán đại trà cho mọi loại phu phen thợ thuyền, xích lô, ba-gác, thợ làm đường và lũ trẻ con nhà nghèo học đòi tập toạng. Loại thứ hai đã có ít mùi cà-phê gọi là cà-phê áo ngắn, khá hơn chút đỉnh, bán cho học sinh trung học và dân buôn đầu đường xó chợ, những người gánh hoa quả rong. Loại thứ ba là loại cà-phê trung bình ở tất cả quán trong thành phố, người nào uống cũng được, nước đã sánh hơn đậm hơn được gọi là cà-phê sinh viên. Loại thứ tư chính hiệu Buôn Mê Thuột ngon thơm đặc sánh pha phin lẻ, nước sôi ngâm tách, giá đắt gấp đôi thứ cà-phê sinh viên là cà-phê công tử, dành cho đám con nhà giàu hoặc những sinh viên được gia đình chu cấp biệt lệ. Loại thứ năm là tuyệt đỉnh, tôi đang gọi đãi anh, cũng là cà-phê Buôn Mê Thuột, nhưng đòi hỏi kỹ thuật rang sấy cầu kỳ, bao nhiêu lượng mỡ gà, bao nhiêu bơ, bao nhiêu muối rang trong thời gian bao lâu, ngọn lửa thế nào và được ủ ra sao trước khi xay... tất thảy đều là bí quyết. Hơn nữa, khi pha, phải pha đúng kiểu Pháp thuộc địa, kiểu đó chỉ có những tay bếp Tây ngày xưa nắm được rồi truyền lại đến bây giờ... Căng nói say sưa, sùi bọt mép, như cậu học sinh thuộc bài từ lâu đợi mãi mới có dịp lên bảng đọc thuộc lòng. Hoan phì cười:
- Anh giỏi thật. Tôi là dân gốc ở đây mà chẳng rành.
Căng cười ngất ngư:
- Trời cho mỗi người mỗi lộc. Tôi chẳng buôn may bán đắt như anh nhưng trời cho tôi một trí nhớ thần kỳ tất thảy những gì từ năm tôi ba tuổi tới nay tôi nhớ như buổi chiều hôm qua.
Lão gù bưng ra hai tách cà-phê nghi ngút khói. Mùi thơm tỏa ngào ngạt khắp gian phòng. Hoan nói:
- Thơm thật... lần đầu tôi ngửi thấy mùi thơm đặc biệt thế này. Thật không ngờ...
Căng cả cười nói tiếp:
- Không ngờ cái quán ghẻ lở nơi ngoại ô lại có thứ đồ uống xịn thế phải không?... Nào, mời...
Anh ta bưng tách cà-phê lên hít ngửi một hồi rồi hỏi chủ quán:
- Lúc nãy Thu Cúc có rẽ vào đây không?
Lão lắc đầu:
- Không, cô ấy đã về thẳng nhà.
- Con đĩ Hồng nhảy bổ vào chị ấy, tôi không kịp đỡ.
- Con rắn độc mặt lưỡi cày ấy nham hiểm lắm.
- Nó cào Thu Cúc xước mặt.
- Rồi tôi sẽ bắt nó trả nợ ba lần.
- Anh tìm thuốc cho Thu Cúc.
- Khỏi lo. Tôi có thứ mỡ chuyên bôi sẹo và thứ rượu thuốc dành cho đám võ sư.
- Nhưng chúng tôi cũng đập nó nát mặt.
- Chưa đủ.
- Tôi định hiếp cho nó bại xương hông nhưng anh bạn đây đòi về.
- Cứ để nó đấy. Khắc có người lo.
- Anh không sợ thằng mặt dầy bán thuốc lá à?
- Thằng đó nhiều nợ với tôi... Vả chăng nó đã kiếm được mấy con bò lạc mới sắp thải con đĩ Hồng.
- Anh đã thấy mấy con bò lạc đó chưa?
- Rồi.
- Có con nào khá không?
- Cũng tạm... Toàn dân xứ biển trốn làng ra đây, chẳng ngon mắt nhưng khỏe như trâu đực. Thứ ấy đến bò nhảy cũng không chết.
- Còn non không?
- Non. Lớn nhất mười chín, nhỏ nhất mười lăm.
- Có đứa nào còn trinh không?
- Ðừng mơ. Gái xứ biển dâm vô độ. Chúng toáy hoáy từ thuở dậy thì.
- Thôi cũng được, chọn cho chúng tôi hai con khá nhất.
- Ðược.
- Anh cứ bảo thằng béo chính tôi yêu cầu.
- Ðược.
- Hiện chúng đang bị nhốt ở chuồng nào?
- Cách đây hai mươi cây số. Lão đang tập nghề cho chúng... Anh có thích mò xuống đó chơi non hay không?
- Cũng hay. Bọn gái chưa thành thục cũng có cái thú riêng. Hôm nào đi được báo cho tôi.
- Yên trí, tôi sẽ báo cho anh thật sớm.
Căng nhấp ngụm cà-phê thứ nhất, khà một tiếng. Hoan đã uống gần cạn tách cà-phê. Cà-phê ngon thật. Hoan không ngờ trong cái quán bẩn thỉu tồi tàn này có thể kiếm được thứ cà-phê ngon đến thế. Cách sao rang tẩm xay có bí quyết nào đó khiến vị cà-phê thơm ngậy, cùng một lúc mùi mỡ gà mùi bơ mùi muối mùi than lửa hòa quyện thành thứ mùi siêu việt khôn tả. Giá chi anh học được bí quyết này để về rang xay cà-phê uống sáng sáng nơi Xóm Núi?... Ý nghĩ ấy vừa chợt đến đã khiến anh giật mình sững sờ: Xóm Núi còn đó nhưng mái ấm của anh đâu còn?... Chỉ có ông già Lư chăm sóc vườn tược và ngày ngày Miên đưa cu Hạnh về chơi. Vợ anh trở lại nhà như vị khách thường nhật, còn anh, anh là vị khách hàng tuần. Ngày Chủ Nhật anh quay lại gặp đứa con trai khi Miên vắng mặt.
- Thế nào, anh có thể liệt cà-phê quán này là hạng nhất thành phố không?
Căng cất tiếng đột ngột hỏi. Và anh, giật thót mình gật đầu:
- Nhất, nhất... nhưng vì sao không trưng bảng quảng cáo hoặc đề giá từng loại cho khách hàng?
Căng cười sằng sặc:
- Vì chủ nghĩa xã hội không chấp nhận một tách cà-phê này đắt gấp năm lần hay mười lần một tách cà-phê khác... Xã hội của chúng ta là xã hội của sự công bằng.
Ðặt tách cà-phê xuống, anh ta mím môi lạ, nụ cười tự dưng biến mất trên gương mặt vô cảm, gương mặt đã quá quen thuộc với anh. Hoan dè dặt nói:
- Ờ, tôi nghĩ nhà nước có lý của họ.
Căng nhìn anh:
- Anh nghĩ thế thật hay vờ?... Anh có tin rằng trên đời này có sự công bằng hay không?... Tôi chưa từng nghĩ tới điều ấy kể từ khi tôi biết mặt chữ. Sự công bằng, tự tay tôi thiết lập trong chừng mực tôi có thể... Ðó, anh vừa nhận ra sự công bằng tôi tạo dựng trước mắt anh. Con em gái tôi nõn nường xinh đẹp như vậy phải bán trinh cho gã lái trâu lấy nửa chỉ vàng, trong khi một con điếm già tã tượi mỗi lần nằm ngửa lại được anh cho mấy tờ bạc lớn, không những thế còn lừa anh cho bọn cá và thằng chủ lầu xanh trấn lột... Ðiều đó có gì giống với sự công bằng anh nghĩ không?... Không... Vậy tôi phải tự tay thiết lập sự công bằng trên cái mặt dày của nó... Còn nữa, một người như Thu Cúc, vợ anh bạn gù đây có đáng sinh ra để làm cái nghề đốn mạt này không?... Không. Nhưng chị ấy đã bị số phận xô đẩy và phải lăn lưng xuống bùn. Thu Cúc đã học đại học luật năm cuối. Quê chị ấy ở Nha Trang. Chị ấy lưu lạc tới đây sau ngày giải phóng, chẳng phải thứ dân thất học như tôi...

Kỳ 115
Trán Căng nhăn lại trong khi anh ta nói, gương mặt anh ta xanh xám, vệt gân đen nổi giữa sơn căn. Hoan không khỏi kinh ngạc: Một gã thất học trồi từ bùn đen lên, thán phục và thương cảm một người đàn bà xuất thân từ tầng lớp trên bị sóng đời vùi dập trong khi thẳng tay đánh đập tàn nhẫn một người đàn bà khác cũng bùn lầy dơ dáy như gốc rễ của gã, như bản thân gã... Và động cơ trước hết là sự chênh lệch giữa hai món tiền bán mình, cái duyên cớ thúc đẩy lòng căm uất và cho phép gã thiết lập sự công bằng như gã muốn?... Thật sự, anh không hiểu nổi cái lô-gích đời sống này. Cái cuộc sống anh đang phải chấp nhận dù anh ước muốn được xa cách mãi mãi. Cái cuộc sống anh đang đối diện từng ngày từng giờ mà không ngừng ao ước cuộc bỏ trốn. Cái cuộc sống hòa trộn gương mặt vô cảm của gã lái buôn Căng với đôi mắt chó giấy tô vẽ của cô điếm
Hồng, cái đầu trơ trụi không sợi tóc của nàng Thu Cúc với màu son đỏ chói trên làn môi dầu dãi, những bàn tiệc và chiếc thau nhôm chứa nước tiểu trong gian nhà chứa, chốn đại tiện công cộng được thỏa thuận cho giới đàn ông... Ðó, chính là gương mặt thật cái cuộc sống anh phải chấp nhận, thô lậu xa xỉ khốn cùng. Chỉ tới hôm nay, anh mới thấu suốt. Giống một ngày thu trong veo chợt ta nhìn rõ những vẩn mây lơ lửng tít khung trời.
Hoan đưa tách cà-phê lên môi uống cạn những giọt cuối cùng. Những giọt cà-phê đặc sánh thơm nức khiến anh nhớ những nương cà-phê chín đỏ, nhớ không khí mùa thu hoạch trên Xóm Núi, đám thợ hái cà-phê đi lại trò chuyện giữa các rặng cây, trời thênh thang, gió thổi, chim hót, tiếng sáo của lũ trẻ chăn dê từ các sườn dốc vọng về... Anh nhớ. Hồi nhớ không sót một mảy may cuộc sống anh từng sống. Anh thấy Miên đi giữa những nương vườn, tay này chị xách chiếc giỏ tre đựng thẩu chè đậu xanh đãi thợ và tay kia xách ấm trà tươi lớn, chị cười nụ cười mê hồn gương mặt ửng hồng với những giọt mồ hôi lấm tấm trên môi, cặp mắt đen láy nhìn anh qua đám lá cành, chờ đợi, e ấp như thời thiếu nữ chưa qua... Bây giờ, anh đã biết rằng anh chẳng bao giờ có cuộc sống thật sự nơi đây, trong thành phố này, nơi chẳng ai xót thương ai và tất cả bán mình cho đồng tiền trong túi. Ở đây, dù thành công hơn nữa, xây mười một ngôi nhà lầu anh cũng không sung sướng. Chỉ có một người có thể đem lại sinh khí cho cái thực thể mang tên hạnh phúc, người đó là Miên. Chính chị mới là cột trụ của cuộc đời anh, kẻ khai tạo niềm vui và nguồn vui sống. Chính chị là người bảo trợ cho anh. Xét cho cùng, người đàn ông như anh là kẻ yếu. Anh chẳng phải gã đàn ông có gương mặt vô cảm ngồi trước mặt anh kia. Gã, kẻ hùng. Gã yêu tiền, sung sướng vì tiền. Thế là đủ. Anh, con vật yếu đuối cần tình yêu. Chỉ một người có thể mang lại cho anh điều đó. Người ấy là kẻ mạnh. Người ấy đã bỏ anh ra đi vào một sớm sương mù, với bị cỏ Thạch trinh hương. Cuộc ra đi giống cuộc ra đi của kẻ tử thù. Nhưng chị đã quyết. Và chị bỏ anh côi cút sau lưng. Và cuộc đời xô đẩy anh đến bến bờ rác rưởi này... Sớm ấy sương mù... Tại sao lại có một buổi sớm sương mù như thế sau những ngày hạnh phúc?... Tại sao vô vàn những hạt sương trên lá cành vườn tược rớt xuống mặt anh?...
- Anh làm sao thế?...
Căng cất tiếng hỏi đột ngột và nhìn chòng chọc vào mặt anh.
Hoan vội vã chớp mắt:
- Có con muỗi vừa bay vào mắt tôi...
Anh ta im lặng, đầy vẻ hồ nghi nhưng không gặng thêm. Rồi lát sau anh ta hỏi:
- Về chứ?
Hoan gật đầu:
- Về.
Căng rút ví:
- Tôi trả chầu cà-phê này.
Hoan gạt đi:
- Ðể tôi.
Nhưng anh ta lắc đầu quầy quậy:
- Không. Riêng lần này tôi trả. Tôi đang sướng. Những lần khác anh trả là hợp lý. Anh giàu gấp trăm lần tôi và nhờ tôi anh hiểu thêm được chuyện đời.
Nói rồi Căng quay lại bảo chủ quán:
- Nhớ món hàng tôi dặn... Hai con bò xứ biển, chọn loại thịt chắc nhưng đừng đen quá... Ngon lành đến mấy mà da đen xì cũng hết thú chơi...
Chương 20
Vào mùa săn, việc nương vườn trễ nải. Các ông già bà lão ngồi uống nước chuyện vãn ngóng tin con cháu. Ðám đàn bà ra ra vào vào ngóng chồng. Lũ trẻ biếng chơi, tụ tập chờ tin cha anh, mỗi lần có toán thợ săn trở về là chúng phóng như bay đến xem rồi lại phóng như bay đi khắp nơi loan báo. Tất thảy mọi đôi tai đều dỏng lên chờ hiệu kèn báo đoàn săn thú trở về. Không khí vừa khắc khoải, bồn chồn vừa nao nức như ngày hội. Khó ai đủ kiên tâm lên nương rẫy lúc này. Xóm thôn cứ lặng ngắt trong cơn hồi hộp như thế cho tới lúc mùa qua...
Một sớm, đứa con trai lớn của Xá chột tới nhà Bôn réo ầm ĩ từ ngoài ngõ:
- Chú Bôn... Ớ chú Bôn... Cha cháu nhủ chú sang uống rượu.
- Chú Bôn..., ớ chú Bôn...
Bôn còn đang ngái ngủ, thằng bé đã đập cửa buồng thình thình:
- Chú Bôn, mở cửa mau.
Bôn vừa bật chốt cửa, nó đã chạy tọt vào vừa thở hồng hộc vừa nói:
- Chú mau sang mà xem... Nhiều lắm, nhiều lắm... Hai con gấu ngựa này, ba con hươu với mạ heo độc nặng ngót hai tạ... Bố cháu bắn con heo độc đó, nhủ chú mau sang ăn thịt nướng.
Bôn hỏi:
- Họ đang chia thịt hả?
- Dạ.
- Chia ở đâu vậy?... Nhà trưởng thôn à?
- Không... Nhà cụ trưởng phường.
Thằng bé đáp với vẻ khinh khỉnh. Tuồng như nó không hiểu vì sao anh cất tiếng hỏi ngớ ngẩn như vậy... Bôn chợt nhớ rằng trong mùa săn, mọi chức sắc của đời sống thế tục bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu và người thực sự có uy quyền là người thợ săn giàu kinh nghiệm nhất, biết đoàn kết anh em trong phường, biết dẫn họ đi theo những lối may mắn, biết chọn giờ xuất hành tốt nhất để săn được nhiều thú và tránh những rủi ro... Anh bảo thằng bé:
- Cháu về đi... Lát nữa chú sang.
Thằng bé chỉ chờ câu nói đó là cắm cổ chạy đi liền. Bôn chắc bố nó cùng đám bạn phường đang chia thịt. Cuộc chia bôi xem chừng phải hàng giờ mới xong. Theo lệ cũ, bất kỳ người thợ săn nào hạ được con thú cũng chỉ được hưởng một đùi tức là một phần tư con mồi. Ba phần tư còn lại được xẻ làm đôi, nửa chia cho anh em cùng phường nửa chia cho các hộ trong làng. Bởi thế đến mùa săn dù nhiều dù ít nhà nào cũng được thịt rừng và hễ là dân trong phường dẫu năm ba mùa liền chẳng bắn trúng con thú nào cũng vẫn được chia phần thịt đều như những người khác. Chỉ một tiếng nữa thôi, cả làng sẽ vang lên tiếng chày cối chí chát, tiếng dao băm xuống thớt, tiếng gọi í ới vọng qua các bức rào và không gian sẽ ngào ngạt mùi thịt nướng hoặc mùi phi hành tỏi...

Kỳ 116
... Ta nấu nồi thuốc đã, uống xong sang cũng vừa...
Bôn nghĩ vậy. Anh xuống bếp đun nồi nước lá Dâm dương hoắc. Trong nhà còn một bát thuốc bổ khác chờ anh. Thứ thuốc ấy, chính cụ Phiều dạy anh nấu. Sau một thời gian sức lực anh khá lên đôi chút, cụ đã khuyên anh kiên trì uống cao dê. Thứ cao dê chuyên trị thận hư đau lưng, gân cốt yếu, hay đổ mồ hôi ban đêm, lòng bàn chân lẫn bàn tay sinh nhiệt, luôn bị táo bón và da lông khô ráp. Tất thảy các hiện tượng lâm sàng đều ứng đúng với Bôn, như thế anh phải uống bài: Ích âm bổ thận, cường tráng gân cốt. Bởi vì, theo cụ Phiều, không những anh hao tổn dương khí mà âm khí cũng tiêu tán, tì phế đều nhược, cần thay đổi các phương thuốc theo từng giai đoạn mới có thể cân bằng âm dương, di dưỡng sinh khí. Bài thuốc cụ bày cho anh không quá cầu kì nhưng cũng tốn công sức. Anh phải kiếm đủ tủy xương dê nấu chín, mỡ dê rán, mật ong trắng, gừng tươi, và củ địa hoàng tươi. Tuy nhiên, tất thảy những thứ đó đều mua bằng tiền của Miên, những đồng tiền rút từ túi áo chị. Sáng sáng, Bôn hòa cao dê với nửa bát nước sôi và nửa bát rượu uống thay trà. Sau khi thuốc ngấm, mồ hôi thoát ra ướt đẫm lưng áo, anh cảm thấy mình khỏe như thời mười tám, có thể chiến thắng mọi trở lực và làm cho Miên có thai ngay đêm ấy... Nhưng cảm giác sảng khoái và niềm tin đó chỉ tồn tại nửa giờ. Khi mồ hôi lạnh trong lưng, những cơn đau lại tới, những mối u hoài lẫn sự tuyệt vọng lại xô anh xuống dòng nước và anh chơi vơi như kẻ sắp chìm... Lần hồi, anh không còn biết mình phải làm gì?... Anh vẫn uống thuốc như một cái máy đúng giờ nạp điện là nạp điện. Anh vẫn hy vọng phục hồi, vẫn không bỏ qua bất cứ lời khuyên nào, không đánh mất bất cứ cơ may nào để thực thi ước muốn... Nhưng cùng lúc ấy, có một gã đàn ông thảm đứng bên ngoài, nhìn tất thảy những nỗ lực của anh với cặp mắt chế riễu với nụ cười ảm đạm, gã đàn ông đó biết mọi nỗ lực của anh là nỗ lực của dã tràng, và trong nụ cười mỉa mai u ám của gã anh thấy một con thuyền gãy lái, cánh buồm tơi tả vẫn không ngừng bơi, không ngừng bơi...
- Chú Bôn... ớ chú Bôn...
Thằng con Xá chột đã quay lại, đang gào ngoài cổng với giọng bất mãn không che dấu:
- Bớ chú Bôn, cha cháu đang chờ chú ở nhà.
- Ờ, chú sang, chú sang ngay đây...
Bôn không ngờ cuộc chia chác chóng vánh như vậy. Anh vào buồng, uống bát cao dê hòa rượu rồi đi. Trưa nay, anh sẽ uống rượu với Xá. Sẽ bớt được một buổi trưa buồn tẻ vì theo lệ thường anh ăn bữa trưa một mình. Từ ngày Miên đưa con trai trở lại nhà cũ, họ chỉ ăn chung bữa duy nhất vào lúc tối trời. Sáng nào, Miên cũng dạy trước anh, nấu cho anh óc cơm nếp rồi sang nhà dì Huyên. Óc cơm nếp ấy anh ăn với thịt hoặc cá chị đã kho sẵn. Trưa anh có thể nấu chút cơm nóng ăn với canh rau hoặc bầu bí luộc. Nếu không, anh nấu bát cháo tiết dê hoặc cá riếc với thuốc nam theo cách chỉ dẫn của cụ Phiều. Chỉ đến buổi tối anh mới cảm thấy mình được quyền làm chồng, có một người đàn bà ngồi đối diện bên mâm cơm. Chỉ buổi tối, gian buồng của anh mới trở thành một mái nhà cho dù dưới mái tranh ấy anh không dám nghĩ anh có một tổ ấm, hoặc một cái tổ mà kẻ này ấm còn người kia lạnh...
... Dẫu sao, trưa nay ta cũng sẽ được vui vẻ... Dẫu sao, Xá cũng là người bạn chân tình chẳng ai sáng được....
Ý nghĩ đó được anh kéo dài, nhấm nháp như đứa bé nhấm nháp mẩu bánh và khi bước chân qua ngưỡng cửa nhà bạn anh vẫn còn lâng lâng vui.
Xá chột ngồi khoanh chân trên phản đợi anh. Chai rượu thuốc trước mặt, đôi đũa gác ngang miệng bát. Chiếc mâm đồng lớn đặt chính giữa phản, trên đó lò than hoa đang nổ tí tách, cạnh lò là chiếc thẩu lớn bằng gốm da lươn đựng đầy thịt ướp. Bôn biết đó là thịt heo rừng, mạ heo độc đã ngã dưới mũi súng của Xá. Anh chàng sẽ được thăng lên hàng thợ cả sau chiến tích này. Săn nai, săn hươu, săn khỉ, săn hoẵng, săn chồn, săn cáo... thảy thảy đều là công việc của loại thợ cỏ, kể cả săn gấu chó cũng vậy. Nhưng một khi anh hạ được gấu ngựa, lợn lòi, hay hổ lập tức anh được lên chiếu trên, thành thợ cả hoặc thợ sơn gọng, hệt như võ sĩ Tây côn-đô được thăng từ đai trắng lên thẳng đai đen, bỏ qua đai xanh và đai nâu... Nếu con lợn lòi Xá hạ chỉ nặng cỡ tám chục cân, anh ta chẳng được vinh thăng như thế và ít nhất cũng qua vài mùa săn nữa Xá mới có thể mon men tới chiếu đàn anh, nhưng vì con vật anh ta hạ thủ nặng ngót hai tạ nên Xá đã nhảy một bước vọt lên thượng đỉnh làng săn như vậy chỉ trong một thời gian ngắn nữa, chắc chắn anh sẽ ngồi ghế trưởng phường thay cho cụ trưởng phường đang kiêm vị. Gương mặt chàng cựu chiến binh hoan hỉ. Thấy Bôn bước vào anh ta cao giọng gọi:
- Mẹ thằng cu đâu rồi?... Mẹ thằng cu đâu?...
Cô Soan chưa kịp trả lời, Xá đã quát:
- Khách đến rồi, mẹ thằng cu đâu?...
Vợ Xá dạ ran lên hai ba tiếng liền dưới bếp rồi hơn hớn chạy lên chào Bôn:
- Mời anh vào, nhà em chờ anh đã lâu.
Bôn bước vào, cô Soan cũng bước theo, hai má đỏ hây hây như đào chín:
- Thôi, hai anh nhâm nhi với nhau cho ròn chuyện. Em xin phép ăn dưới bếp với mấy đứa trẻ, mẹ con em cũng được thoải mái vui vẻ với nhau.
Nghe vợ nói, Xá chột gầm gừ trong họng như dọa nạt nhưng con mắt lành của anh ta sáng long lanh. E hèm một tiếng, Xá bảo:
- Ấy là tự cô quyết định đấy nhé, chẳng phải tôi... Giao hẹn trước không sau này lũ trẻ lớn lên lại mách: Bố chúng mày ngày xưa phong kiến bắt mẹ với các con ăn dưới bếp chỉ riêng ông ấy ngồi chiếu trên... Ðàn bà thời nay bình đẳng bình quyền đa sự lắm. Soan cười khanh khách, quay cổ lại đối đáp:
- Này bố thằng cu, em không có tài dựng chuyện cũng chẳng có nghề đơm đặt như anh. Cái kiểu đó các cụ vẫn gọi là: suy bụng ta ra bụng vợ đấy...
Nói rồi cô chạy tọt xuống bếp. Và từ dưới bếp tiếng cười của người mẹ trẻ với mấy đứa con ròn rã vọng lên. Tiếng cười làm Bôn tê tái... Giá như anh có ở lại Bản Kheo và có con với nàng Thoọng chắc chắn chẳng bao giờ cô nàng có được tiếng cười nổ như ngô rang lấp lánh bọt nước rực rỡ như nắng hạ. Tiếng cười đem lại nguồn sống cho người đàn ông... Giờ đây, liệu anh có thể có con chăng?... Với Miên, người đàn bà anh yêu mê sợ hãi, người đàn bà quyến rũ anh và cũng làm giá lạnh mọi nỗ lực của anh khiến mỗi cuộc làm tình diễn ra như cuộc tỉ thí trên đấu trường và lạnh lẽo câm nín như nấm mồ, anh có thể vượt được những chấn thương tinh thần và thể xác để gieo hạt sống vào cơ thể chị hay không?... Và nếu họ có con chắc chắn Miên cũng sẽ không cất nổi tiếng cười ròn rã sung sướng như vậy... Hạnh phúc... Phải thế chăng?... Cho đến khi giã biệt cõi đời này anh cũng không thể có được thứ Xá chột đang có... Bến bờ ấy ở bên ngoài sông nước đời anh...
- Nào, rót rượu.

Kỳ 117
Tiếp theo
Bất chợt, Xá chột cất tiếng như quát bên tai Bôn. Miệng nói, tay anh ta mở nút chai rượu thuốc:
- Hôm nay được quyền say, liệu cậu uống nổi mấy chén này?
Bôn nhìn hai chiếc chén sứ sâu lòng chưa biết trả lời ra sao Xá đã nói:
- Rượu ngon đấy nhé, thang Anh Hùng hẳn hoi.
- Thang Anh Hùng là gì?
Bôn hỏi lại.
Xá cười:
- Gọi là thang Anh Hùng vì thứ rượu thuốc này chống lại tất thảy những biểu hiệu yếu kém của người đàn ông trên giường, giúp họ có khả năng bắn liên thanh hàng giờ liền và bắt người đàn bà thụ thai bất cứ lúc nào họ muốn... Ví như tôi đây, nếu tôi đủ lực nuôi nổi một tiểu đội tôi sẽ bắt vợ tôi đẻ liền mười hai đứa sáu trai, sáu gái... Cụ Phiều đã cho cậu uống thang thuốc này chưa?
- Chưa... Hiện tôi đang ăn cao dê kèm các loại cháo bổ.
- Ờ... Vì rượu đó quá mạnh chưa hợp với tạng của cậu. Cần phải chờ thêm một thời gian. Nhưng hôm nay có thể nếm trước vài chén, chẳng sao. Cậu sẽ thấy ngon miệng hơn. Theo lý thuyết của tôi không thứ thuốc nào hiệu nghiệm hơn thuốc bổ dạ dày. Cứ ăn được khắc khỏi hết mọi thứ bệnh và sẽ có tất thảy những gì muốn có. Cậu đã ăn thịt lợn rừng nướng chưa?
- Có, vài lần.
- Ướp với gia vị gì?
- Hành và tiêu bột.
- Ngu. Phải ướp mỡ nước, hành khô, tỏi khô đập giập, tiêu xanh và thêm là húng quế. Cũng chưa đủ, lại còn phải có chút đường, chút muối, vài nắm vừng rang, ít củ sả đâm nhuyễn... Thử cúi xuống ngửi xem thẩu thịt tôi ướp có đủ các thứ mùi đó hay không. Bôn cúi xuống ngửi, xác nhận trong thẩu có đủ thứ gia vị Xá đã liệt kê, ngoài ra anh còn thấy những mảnh ớt tươi băm vụn:
- Sao anh lại cho ớt tươi vào thịt rừng?... Tôi tưởng ớt tươi chỉ làm nước chấm, kho cá, hoặc nấu canh chua?
- Ngốc. Phải có ớt tươi. Lát nữa cậu sẽ thấy mùi ớt tươi nướng hay ra trò...
Nói xong, Xá bắt đầu gắp thịt trong thẩu tải lên chiếc vỉ nướng trên lò than. Chỉ vài phút sau thịt bắt hơi than tỏa mùi thơm nồng dậy và mỗi lúc mùi thơm đó mỗi ngào ngạt hơn, đặc quánh hơn. Không còn riêng biệt mùi thịt chín tỏi hành phi mùi tiêu xanh hơ lửa hay mùi ớt cháy cùng lá húng... Tất cả hòa lại thành một hương vị không phân tách được khiến nước bọt tứa đầy. Xá luôn tay lật qua lật lại vỉ nướng cho thịt chín đều... Khi mẻ thịt đã chín tới độ, riềm những miếng thịt xém vàng Xá gỡ bỏ vào bát cho hai người đoạn anh ta gác vỉ lên lò:
- Nào, nhắm... Ăn hết vỉ này nghỉ vài phút rồi nướng vỉ thứ hai. Ta có cả một ngày để say sưa...
Họ nâng chén, nâng đũa. Món thịt nướng quả là ngon. Lần đầu trong đời, Bôn được ăn thịt rừng nướng ngon như vậy. Hai người im lặng khá lâu. Có lẽ Xá mải nhấm nháp món ăn lẫn niềm vinh quang. Vinh quang đến với anh chàng quá sớm bởi có nhiều tay súng gia nhập phường săn đến hai ba chục năm vẫn ở loại thợ săn cỏ và đến mãn kiếp cũng xếp trong đám đông chạy phía sau hiệu kèn. Xá vui ra mặt. Niềm vui đó lan sang Bôn trong khoảnh khắc, rồi nó ra đi rất nhanh:
... Ờ, ta cũng có thể kiếm được niềm vui như Xá, nếu muốn. Tay súng ta cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng thú vui đó có nghĩa gì, chẳng có nghĩa gì hết... Màu xanh nhờm tởm của núi rừng khiến ta chẳng còn ham muốn. Thợ cả hay thợ cỏ cũng thế thôi, rồi cũng ra ma, Miên cũng sẽ ra ma người đàn ông kia cũng sẽ ra ma... Vô nghĩa hết...
Những ý nghĩ bay chập chờn như đàn bướm trong óc Bôn. Thứ rượu thuốc khiến anh ngây ngất, choáng váng. Nhưng anh vẫn tiếp tục uống. Xá chột không ngơi tay rót cho anh. Họ ăn hết mẻ thịt rất nhanh. Xá nướng tiếp mẻ thứ hai. Mùi thịt nướng lẫn mùi than lửa thơm ngây ngất... Và xa vời... Tuổi trẻ anh cơ cực, anh không được hưởng những thú vui gia đình, anh không được hưởng và không biết cách nấu nướng ngon lành như Xá. Sự đơn bạc của số kiếp chẳng rời anh. Ðã có lần, anh chạm tay vào thần may mắn... cái ngày Miên bị bạn đẩy xuống suối anh đưa cánh tay ra và số phận kết trói họ... Số phận đã vĩnh viễn ràng buộc anh với người đàn bà ấy... Tại sao anh không từ bỏ Miên tìm một người nào khác?... Có thể. Trên hai trăm cô gái ế chồng ở nông trường đang chờ anh. Anh có thể trở thành ông hoàng của một cô gái lỡ thì ở nông trường như anh đã từng là ông hoàng của nàng Thoọng nơi Bản Kheo. Và dù sao đây cũng vẫn là xứ sở của anh, anh được nói tiếng mẹ đẻ, được ăn những món ăn quen từ thuở lọt lòng... Tại sao anh không thử thời vận may một lần? Tại sao anh thối chí? Không, không, đã quá muộn. Anh không còn sức để thử vận may. Vầng trăng bạc trên dãy núi Bản Kheo đã hút hồn anh, anh đã đi theo nó, đã rút tới giọt sinh lực cuối cùng. Trong cuộc hành trình ấy, máu lẫn mồ hôi anh đã tháo chảy giờ đây anh chỉ còn là một hình hài trống rỗng một nhúm da khô xác đen sạm một trái tim cạn máu giống như vỏ quả bầu khô...
- Ngon chứ hả?
Bất chợt Xá lên tiếng. Bôn gật đầu:
- Ngon... Ngon lắm.
- Sao mắt cậu lờ đờ thế kia?... Mới có vài ngụm rượu đã say à. Hèn quá...
Ngoái cổ ra sân, Xá gọi:
- Mẹ thằng cu đâu?... Cho bát cháo đậu xanh lên đây...
- Dạ... Có ngay...
Soan đáp. Chỉ nháy mắt sau chị đã bưng lên khay gõ nhỏ trên đặt một bát chiết yêu cháo nóng nghi ngút, thứ trá o đậu xanh nấu lẫn nếp sánh như hồ:
- Anh Bôn đã ngà say rồi ư?...
Chị hỏi rồi đặt tô cháo trước mặt Bôn:
- Anh ăn cháo đi, chỉ vài phút là tỉnh.
Soan đặt thêm một lọ đường với chiếc đĩa đựng muối bên cạnh tô cháo.
Xá hỏi:
- Cậu ăn cháo muối hay đường?
Soan nói:
- Cho anh ấy ăn muối mình ạ... Ăn cháo muối mau tỉnh hơn...
- Ờ thì muối...
Nói đoạn xá nhúm mấy hạt muối bỏ vào tô cháo cho Bôn. Soan lại đưa tay ngăn chồng:
- Ăn ít muối thôi kẻo lại đau thận...
Dặn dò xong người đàn bà cầm chiếc khay gỗ đi xuống bếp. Bôn bưng bát cháo ăn và đột nhiên anh nghĩ:
... Mình thèm một người vợ như Soan, như Soan... Mình có thể yêu cô ấy ngay bây giờ ngay ngày hôm nay... Và mình sẽ nói thẳng với Xá điều này...
 
 

Kỳ 118
Tiếp theo
Ăn xong bát cháo, mồ hôi vã đầy mặt và gáy Bôn. Anh rút khăn lau mặt, cảm thấy cơn chếnh choáng tan dần óc não tỉnh táo lại và ngay lúc ấy anh lạnh sống lưng: Anh vừa phạm tội. Anh vừa ước muốn vợ bạn. Trong lúc húp những miếng cháo nóng sực anh đã nhìn tấm lưng Soan, cặp mông đung đưa với những khát thèm tội lỗi, và khởi đầu sự ước muốn đó từ lúc cô cúi đặt tô cháo trước mặt anh:
... Ta thật khốn nạn... Xá là người tử tế nhất với ta...
Bôn vụng lén đưa mắt nhìn Xá, anh ta vẫn tiếp tục uống rượu với thịt nướng, đang liếm mép một cách ngon lành. Nhìn cái điệu bộ đó, thấy anh có thể chén hết cả thẩu thịt cũng chưa say. Bôn biết Xá chẳng mảy may để tâm đến những gì vừa xảy ra với mình. Anh run run thở:
- Thôi, cơm no rượu say rồi tôi về đây.
Nói rồi Bôn đứng lên ngay định bụng ra về tức khắc để quên đi cái chuyện vừa xảy ra, dù chỉ mình anh hay biết. Nhưng Xá đã quát tướng lên:
- Ðiên à?... Nghỉ một lát rồi tiếp tục uống rượu... Mấy tháng rồi cậu mới tới nhà tôi. Bôn đáp:
- Anh bận, tôi chẳng dám quấy.
Xá lắc đầu giận dữ:
- Cậu tịt ngay cái giọng khách sáo thị thành ấy đi... Tôi đang có chuyện muốn hỏi cậu... Ngồi xuống.
Giọng anh ta đầy uy lực và sự ngay thẳng nhiệt thành của anh cũng đầy uy lực. Bôn đành ngồi xuống phản. Con mắt lành của Xá chăm chú hướng về anh:
- Tôi nghe nói cô Miên dẫn thằng con trở về nhà cũ.
- Phải.
- Cô ấy có nói gì với cậu không?
- Ðứa bé muốn có chỗ chơi. Ở đó sân rộng vườn rộng nó có thể đạp chiếc xe ba bánh. Hơn nữa Miên còn nương vườn, cô ấy cần xem xét công việc.
- Và cậu phải chấp nhận?
Bôn không đáp.
Xá tự trả lời:
- Cũng phải chấp nhận thôi. Lẽ ra, cô ta có thể cự tuyệt quay về với cậu từ đầu, nhưng tôi nghĩ cô ta vẫn còn thương cậu đôi phần... Hoặc nói cho đúng hơn, cô ta chịu hy sinh thân mình để bù trả cho những thiệt thòi của cậu... Nhưng sự hy sinh nào cũng có giới hạn. Tôi đã lường trước việc này...
Bôn đứng lên:
- Anh lại sắp nhắc tới hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa và yêu cầu tôi tới đó phải không?... Tôi chán lắm rồi...
Xá quắt mắt quát:
- Cậu đừng sĩ... Giờ bụng có muốn tới đó cậu cũng chẳng dám đi. Tôi biết tỏng điều ấy...
Trán Xá cau lại, cày một dãy vết nhăn sâu gương mặt anh ta có một vẻ gay gắt và chua xót lạ lùng. Bôn không chịu nổi ánh mắt dữ dằn của Xá nên đành cúi mặt im lặng. Xá bảo:
- Làm sao phải sĩ diện thế? Mà lại sĩ diện với tôi? Tôi có định tranh cướp cô Miên với cậu đâu? Tôi có phải là tình địch của cậu đâu? Tại sao phải giữ cái thói sĩ diện thối tha ấy?
Càng nói giọng Xá càng cọc cằn giận dữ và những nếp nhăn càng đào sâu thêm trên trán anh ta, dưới món tóc mà lần đầu tiên Bôn nhìn thấy vài sợi bạc:
... Phải, ta là kẻ thối tha, vì anh ấy thương ta thật lòng. Xá phải lo kiếm tiền nuôi vợ nuôi con, tu tạo cửa nhà, một trăm thứ việc nhưng vẫn còn phần áy náy cho ta...
Gạt chiếc bát sang một bên, Xá nói tiếp:
- Cậu nên biết rằng nếu có cuộc tranh chấp giữa cậu với một người đàn ông khác, hẳn tôi phải đứng về phía cậu... Chúng ta, những kẻ đã chia sẻ thiệt thòi, có chung nhiều mất mát... Tôi biết nỗi đau cậu phải chịu và tôi chỉ mong những tốt lành đến với cậu. Sao cái sự đơn giản ấy cậu không chịu hiểu?
- Tôi hiểu, anh thương tôi hơn tất thảy mọi người... Nhưng anh khó thông cảm được với tình cảnh của tôi.
- Có thể...
Xá đáp, giọng dịu xuống:
- Có thể tôi suy nghĩ khác cậu và tính khí tôi khác cậu... Có thể là tôi chủ quan khi gán ghép những tính toán nhận định và cách xử thế của tôi cho cậu... Bởi vì nếu là tôi...
Nói tới đó Xá thở dài, mở nút chai rượu rót tiếp:
Bôn hỏi:
- Anh vừa nói: Nếu là anh...
Xá gật:
- Nếu là tôi... Phải, nếu là tôi khi trở về người vợ đã kết hôn với kẻ khác tôi sẽ...
Bôn tiếp lời:
- Anh sẽ bỏ đi... như nhiều người đàn ông khác... Như đa phần những người đàn ông trên đời. Những người đàn ông cao thượng trọng danh dự hơn hết thảy... Nhưng tôi chẳng cần những thứ đó. Tôi cần hạnh phúc, tôi muốn được ăn nằm và có con với người đàn bà tôi yêu... Tôi chẳng ông chồng trinh tiết hay đức hạnh. Tôi đã ngủ với những người đàn bà khác dọc đường chiến tranh và tôi biết rằng con người chỉ hạnh phúc khi được làm tình với người mình yêu...
- Bây giờ cậu hạnh phúc chứ?
Xá hỏi.
- Tôi yêu Miên và bây giờ cô ấy là vợ tôi. Tôi có thể ăn nằm với cô ấy bất cứ lúc nào tôi muốn.
Bôn đáp lại, giọng nhát gừng khinh khỉnh, vẻ mặt lạnh lùng trong lúc óc não anh liệt kê những cuộc làm tình bất khả, trái tim tê bại nhục nhã của anh rên rỉ và tâm hồn anh như mảnh vải mục đang tan mủn dần trong chất cường toan.
... Ta phải về, phải về, phải về...

Kỳ 119
Tiếp theo

Anh tự nhủ, sợ rằng chỉ một ly nữa thôi, cốc nước sẽ tràn, nồi đau đớn sẽ đập vỡ trái tim khô kiệt của anh và anh sẽ òa khóc sẽ đổ gục như thân chuối bị phạt trước mắt người bạn thuở thiếu thời:
- Tôi về đây.
Bôn nói. Xá không trả lời. Anh lại thở dài não nề và gương mặt bỗng trở nên xa vắng. Dường như trong giây lát, Xá đã quên bẵng câu chuyện họ đang nói và anh đang rượt đuổi một cơn mơ ngày hoặc một con lợn độc trong cánh rừng tưởng tượng. Sau một lát im lặng bất chợt Xá ngẩng lên:
- Cô ấy vẫn chưa có thai à?
- Chưa.
- Cụ Phiều bảo cậu còn phải chờ bao lâu nữa?
- Ông cụ chẳng nói rõ thời gian, chỉ khuyên kiên trì.
Xá nhếch mép cười:
- Chờ đợi không phải nghề của người đàn ông. Mà thời gian cũng chẳng phải cái túi không đáy. Tôi ngờ rằng cậu không còn thời gian và vì thế phải dùng các biện pháp mạnh.
Bôn im lặng. Anh biết Xá có lý. Xá hoàn toàn có lý. Anh không còn thời gian. Cuộc sống chung của anh với Miên đã trượt trên con dốc nghiêng chẳng bao lâu nữa là tới bờ. Xá nhìn anh, nói tiếp:
- Người ta có dạy tôi một bài thuốc, cậu có thể xem xem. Nếu buổi tối cậu uống một cốc cà-phê đặc pha với vài hạt muối trước khi gặp đàn bà chừng nửa giờ, cậu có thể hưng phấn bắn liên thanh khoảng một giờ liền mà nòng súng không nóng chảy, nhưng chỉ được phép làm vài lần thôi, sau đó phải chấm dứt vì phương thuốc này đốt thận. Nhưng trong vài lần tăng cường độ đột ngột như thế, tỷ lệ thụ thai rất cao.
- Cảm ơn anh, tôi sẽ xem xem...
Bôn đáp với vẻ dửng dưng nhưng thực ra anh đã nghe như nuốt lấy từng lời. Họ từ biệt. Trái với lệ thường Xá đưa Bôn ra cổng. Xá không nói gì thêm. Bôn cũng vậy.
Chiều đó Bôn ngủ một giấc dài rồi sang nhà cụ Phiều xin vài tách cà-phê rang sẵn. Dân Xóm Núi trồng cà-phê nhưng ít uống. Họ vẫn ưa uống trà búp hay nụ vối vườn nhà, vừa rẻ vừa giản tiện. Chỉ một vài gia đình khá giả trong làng thích thứ đồ uống lách cách đó. Ðứng đầu bảng là cụ Phiều. Ông già đa tình và kiêu hãnh này thường tuyên bố:
- Ðã là người phải biết sự khổ cùng cái sướng. Chẳng ngu dại gì mà không thụ hưởng những sản vật tự tay mình làm ra. Dân xứ quê nuôi gà nhưng chỉ dá ăn gà toi gà dịch, nuôi lợn nhưng chỉ dám thịt lợn còi, trồng lạc trồng đậu cũng chọn hạt nẩy đem bán còn hạt thối hạt lép dành cho mình ăn... Thế nên các cụ đã bảo trăm năm ngàn năm thằng còng làm thằng ngay ăn... Nhưng tôi vốn ngược đời, cái gì tôi làm ra tôi hưởng trước hết, và hưởng phần ngon nhất...
Gia đình cụ nhất nhất tuân thủ nguyên tắc ấy. Khi nào muốn thịt dê họ cắt tiết con dê ngon nhất đàn, muốn thịt lợn họ chọn con béo nhất chuồng. Trứng gà đẻ hàng ngày con cháu cụ nhặt quả tươi ăn trước, còn thừa mới đem bán. Cả vùng nhìn gia đình cụ với con mắt thần phục và ghen tị. Khi Bôn đến, cụ Phiều vừa tắm xong đang ngồi uống trà, ngang lưng quấn tấm khăn lông. Tắm nước nóng rồi uống trà nóng cho mồ hôi thoát ra, mồ hôi ra tới đâu dùng khăn bông thấm tới đấy, ấy là một trong những phép dưỡng sinh của ông lão độc đáo này:
- Vào đây, vào đây...
Vừa nhìn thấy Bôn ở đầu ngõ, cụ đã cất tiếng hồ hởi:
- Tuần trà này xanh lắm, không uống cũng thiệt.
Cụ nói và rót cho anh chén trà nóng. Bôn uống hết chén trà mới dám cất tiếng hỏi:
- Cháu nghe nói bác vẫn uống cà-phê thường ngày. Bác có thể cho cháu vài thìa được không?
Cụ Phiều nhìn anh:
- Anh định dùng bài cà-phê muối chứ gì?
Bôn im lặng. Chẳng gì giấu được lão phù thủy này.
Cụ Phiều nói:
- Tôi không lạ gì phương pháp ấy. Nó có thể đem lại kết quả tức khắc nhưng nguy hại cho anh lâu dài. Nó là con dao hai lưỡi, phải nghĩ kĩ đi...
- Cháu biết điều ấy... Nhưng cháu phải có con... Cháu cần có ngay một đứa con...
Bôn đáp và bỗng dưng giọng anh rung lên như sắp khóc. Cụ Phiều ngoảnh mặt ra vườn nhìn ngọn cây một lát, như chờ cơn xúc động của Bôn qua đi. Rồi cụ đứng dậy mở tủ, lấy trong đó chiếc bình thủy tinh đựng đầy hạt cà-phê rang và chiếc cối xay nhỏ. Ðem tất cả ra bàn, cụ thong thả lấy thìa xúc cà-phê bỏ vào cối xay. Mùi thơm bay lừng. Bột cà-phê rất mịn và màu nâu óng của nó tỏa vị mỡ gà. Bôn nói:
- Thơm thật.
- Ờ, tôi rang bằng mỡ gà trống thiến.
Cụ dốc cối cà-phê xay vào một tấm giấy dầu, gói lại đưa cho Bôn:
- Anh cầm lấy.
- Cháu cảm ơn bác.
Bôn nói và đứng lên, định ra về tức khắc. Nhưng cụ già lại bảo:
- Anh chưa về được. Chờ tôi lấy cho chiếc phin đã... Không lẽ về nhà anh bỏ vào nồi mà đun?...
Bôn sựng lại.
... Mình quê mùa hơn cả một lão nông...
Cụ Phiều đã quay ra, đưa cho anh chiếc phin pha và nói:
- Ðừng đổ quá nửa phin, nếu không nước không xuống nổi. Và anh cũng không được quên rằng nước pha cà-phê phải thật sôi.
Anh cảm ơn ông lão lần nữa rồi ra về.
 
Kỳ 120
Tiếp theo
... Ðây là vũ khí của ta, cứu cánh cuối cùng để dành lại hạnh phúc. Cuộc đời phía trước của ta trông chờ vào thứ bột kích thích này...
Anh nghĩ, và vừa đi vừa thò tay nắn gói cà-phê trong túi quần. Ðường làng vắng tanh. Giờ này chẳng ai đi chơi cả. Thế cũng may, nếu không sẽ có kẻ bắt gặp anh vừa đi vừa cười và người ta ngờ anh mất trí...
Tối hôm ấy sau bữa cơm chừng nửa giờ Bôn đun nước pha cà-phê. Mùi thơm tỏa lừng căn buồng. Miên đưa mắt nhìn anh ngạc nhiên nhưng không nói gì. Chị lấy mớ quần áo khô ngồi gấp.
- Miên có uống cà-phê không?
Bôn hỏi:
- Không.
Chị lắc đầu.
- Tôi tưởng Miên vẫn thường dùng cà-phê... ở đằng kia?
Anh hỏi tiếp, đưa mắt nhìn sâu vào mắt chị xem câu hỏi ấy gợi lên những kỷ niệm và ý nghĩ gì... Anh biết căn bếp sang trọng của Miên, chắc chắn ở đó phải có những lọ thủy tinh đựng thứ cà-phê hảo hạng như của nhà cụ Phiều. Nhưng Miên không đáp, chỉ lặng lẽ gấp quần áo, thứ lặng lẽ vẫn có từ ngày về sống với anh. Chỉ một lúc lâu sau, khi thấy anh vẫn kiên tâm chờ câu trả lời của mình, chị mới ném vài lời uể oải:
- Ở đằng kia em có uống... Nhưng không ai uống cà-phê vào buổi tối...
Nói rồi, chị mang mớ quần áo đã gấp bỏ vào hòm. Bôn nhìn theo Miên, con tim đập náo nức:
... Phải, chẳng ai uống cà-phê vào buổi tối như tôi. Tôi, kẻ khốn khổ rồ dại, kẻ yêu em với tình yêu của tên nô lệ của gã ăn mày... Nhưng đêm nay, em sẽ biết tôi là ai...
Sau lời tuyên bố thầm lặng ấy anh nghe tiếng cười đắc thắng vang lên. Tiếng cười của chính anh và của cái kẻ đứng ngoài anh cả hai cùng cất tiếng cười sằng sặc ngạo nghễ điên rồ cuồng loạn và cùng lúc cả hai tiếng cười cùng dội đập vào anh, vọng lên những hồi âm rùng rợn thâm u như tiếng cười của lũ ma dưới đáy vực. Miên chẳng hay biết gì những ý nghĩ của Bôn. Cất quần áo xong chị trở lại giường buông màn, nằm đúng vị trí thường ngày, tay vắt lên trán. Bôn liếc nhìn vợ, bắt đầu uống từng ngụm cà-phê, thứ cà-phê đặc sánh gần như ngả sang đen, thơm ngậy đắng và mặn. Anh uống nhưng không hề cảm nhận mùi vị đồ uống, chỉ đợi thứ nước nóng bỏng đang chảy vào dạ dày. Ở đó, nó sẽ truyền sang các mạch máu một chất kích thích, một ma lực khiến cơ thể anh cháy bùng như lửa, dữ tợn và hùng mạnh như cơ thể một đấu sĩ...
- Ta để đèn đêm nay chứ Miên...?
Chị không đáp. Có lẽ, chị nghĩ anh lẩn thẩn hoặc không có chuyện gì để nói nên lảm nhảm những câu vô nghĩa như vậy. Cánh tay chị vẫn gác trên trán, không động đậy. Bôn nhìn vợ. Khoảng da nơi cổ Miên lộ ra phơn phớt màu cam vì ngọn đèn đêm của họ được che bằng tấm giấy bóng kính màu cam. Bôn thích màu đó. Anh mê mải nghĩ:
... Ðêm nay ta sẽ hôn lên đó, ta sẽ hôn lên môi, ta sẽ...
Ý nghĩ đầy phấn khích, tươi sáng như ánh đèn. Ðã từ lâu anh không dám hôn vợ. Căn bệnh thối mồm không thuyên giảm bao nhiêu và nỗi sợ hãi khiến anh không dám vượt qua hàng rào cấm kỵ... Nhưng đêm nay, một đêm thần kỳ... Nó sẽ cho phép anh làm tất cả... Cà-phê muối đã ngấm. Bôn thấy toàn thân anh từ từ nóng lên, rồi nóng sực, có chút mồ hôi toát ra sau gáy. Ruột cồn cào. Từ thẳm sâu trong anh vừa bùng lên ngọn lửa. Thoạt tiên nó leo lét như lửa nhóm giữa những cành củi nhỏ, nhưng càng lúc nó càng bốc cao càng lan rộng tựa các đống lửa trại thời hoan niên anh từng đốt. Lửa bén bùng nhanh như phép lạ, những lưỡi lửa sinh nở như loài tảo biển, ngọn lửa mẹ đẻ ngọn lửa con, ngọn lửa vàng sinh ngọn lửa đỏ, ngọn lửa đỏ gọi những ngọn lửa trắng... thảy thảy chất chồng ngút ngát mênh mông như lửa cháy rừng. Lửa luồn lách trong các cơ bắp thổi luồng khí nồng nàn hừng hực dưới da, tỏa hơi nóng đến từng lỗ chân lông, từng gốc sợi tóc:
- Miên... Hãy quay lại với tôi...
Anh lẩm bẩm với nụ cười mơ hồ. Ánh sáng loang một vùng trên da thịt Miên. Da thịt Miên trắng nõn ánh hồng ánh cam. Anh nhìn rõ cặp vú chị với hai núm vú nhỏ và mịn đang vồng lên như những trái đồi... Những trái đồi của một mùa xuân đã qua. Mùa xuân ấy, lần đầu anh thọc tay xuống đũng quần ướt, tự biết mình đã trưởng thành, hoảng sợ ngất ngây khi con giống dựng ngược như cây cọc gỗ... Mùa xuân trẻ trung tươi rói. Những trái đồi xuân mơn mởn cỏ cây, mưa bụi giăng trắng xóa từ đồi nọ sang đồi kia từ thung này sang thung khác. Anh lăn lộn trên các dải đồi ướt sũng. Anh băng qua thung lũng, da thịt quệt vào cây lá ướt ròng sương đêm. Anh thơ dại trẻ trung tràn đầy sinh lực tựa hồ mọi bụi cây bờ cỏ kia không ướt sũng mưa bụi hoặc sương đêm mà ướt nhểu thứ nước của sinh lực từ con giống anh chảy xuống...
- Khéo anh làm tắt đèn...
Miên cất tiếng khi Bôn đi ngang qua nơi đặt hộp đèn đêm để leo lên giường. Bôn cười:
- Không tắt đâu... Ðêm nay đèn không tắt được...
Vừa nói anh vừa cúi xuống khêu to ngọn lửa lên. Căn buồng sáng hẳn ra. Miên quay nhìn anh với ánh mắt kinh ngạc nhưng chị chẳng nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhắm mắt và gác cánh tay lên trán. Ánh đèn rọi vào một bên má người đàn bà, đường lượn bên hàm và một phần cổ. Bôn chăm chú nhìn khoảng da thịt tươi mịn ấy rồi bất chợt nắm cánh tay Miên kéo xuống:
- Miên, tôi yêu em.
Chị chưa kịp phản ứng gì anh đã lặp lại lần thứ hai, thứ bà, thứ tư như bắn súng:
- Tôi yêu em, tôi yêu em, tôi yêu em....
Giọng anh mỗi lúc mỗi khàn đi, hung dữ khiến chị hoảng hốt:
- Ðừng... Ðừng anh...
Miên co cánh tay, định ngồi dậy nhưng bằng một cữ chỉ phũ phàng anh đã giằng cánh tay chị xuống siết chặt nó trong bàn tay nóng bỏng của anh và những ngón tay anh căng lên như những gọng kìm:
- Không gác mãi cánh tay lên trán nữa... Như thế đủ rồi...
Bôn nói tiếp, những ngón tay thép của anh siết chặt hơn nữa và thốt nhiên gương mặt anh tím bầm lại, anh quát:
- Như thế đủ rồi... Cô hiểu chưa...?
Cổ Miên tắc lại vì kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng khiến chị đờ dại và vẻ đờ dại đó thú nhận chị sợ hãi, chỉ trong nháy mắt căn buồng gian hãm loài quỷ dữ đã bị rút chốt, cánh cửa bật tung và lũ quỷ điên rồ lao ra. Bôn đột ngột chồm lên vặn hai cánh tay chị khiến chị đau nhói. Khi thấy chị không còn chống cự được nữa anh cúi xuống lung hăng giật những chiếc nút áo trên ngực chị với vẻ tàn bạo chưa từng có. Hơi thở hôi và nóng rực của anh thổi lên mặt, lên cổ, lên tóc tai chị thứ lửa địa ngục và miệng anh không ngừng rít lên:
- Ðáng lẽ ta phải làm như thế này... Ta phải làm như thế này từ lâu... Ta đã quá nhẫn nhục, ta nhẫn nhục như con lừa... Ta đã phải sống kiếp lừa lâu quá...