Kỳ 111
Giọng nữ ca sĩ méo đi vì cuốn băng tồi vì máy hỏng hoặc vì những bài hát cũng giống mùa hoa phải tàn úa theo thời gian. Câu hát cũ xiêu vẹo như bước chân đám hành khất trên con lộ vắng và đôi mắt người đàn bà có gương mặt đầy vết nhám nhìn anh tựa như cặp mắt thủy tinh của một pho tượng què cụt trong ngôi miếu hoang đổ nát ven đường.
- Nào, uống gì? Chị ta cất tiếng hỏi.
- Cho tôi ly nước chanh. Hoan đáp.
- Khẩu vị đàn bà. Chị ta bình luận.
Hoan không trả lời. Chị ta quay lưng vào trong quầy pha nước. Chiếc thìa khua lanh canh, lanh canh. Lúc đó, Căng bước vào:
- Anh uống gì nữa vậy?
- Nước chanh.
- Chẳng cần phải uống cho ỏng bụng. Chúng ta ngồi đây vài phút nữa thôi.
Nói đoạn, anh quay về phía người đàn bà nói:
- Dẫn chúng tôi đi, Thu Cúc.
Gương mặt tàn úa quay ra:
- Ði ngày?
- Phải.
- Chưa đủ mùi hay sao?
- Chưa đủ.
Căng đáp và sau một thoáng ngẫm nghĩ hỏi tiếp:
- Chỗ quen thuộc sao đêm qua không báo động?
- Tôi đã nói rồi, óc đặc thì chết.
Người đàn bà đáp đoạn bưng ly nước chanh đặt trước mặt Hoan.
Căng nhìn chị ta hồi lâu rồi cất tiếng à...:
- Nhớ rồi, nhớ rồi... Nhưng lúc đó tôi chẳng lường được...
Người đàn bà cười, cặp môi thưỡi ra:
- Phải học lấy chữ lường...
Ðoạn chị ta thong thả bước trong gian phòng, vẻ như một cô đào trước màn trình diễn, vừa đi vừa cất tiếng ngâm nga:
... Thế gian ai học được chữ lường. Dẫu rằng dày dạn chín mười phương.
Vẫn còn một lối chưa thông tỏ...
Căng ngắt lời:
- Thôi, chọc ghẹo thế đủ rồi. Gọi lão gù sang trông hàng rồi đưa chúng tôi đi.
Người đàn bà không tỏ ra phật ý cũng chẳng tỏ ra ưng thuận, chị ta lẳng lặng rời khỏi gian hàng qua đường sang dãy phố bên kia. Ở đó, chị ta tiếp tục đong đưa đôi vai gầy và tấm thân cứng ngẳng trong một ngõ hẹp có rất nhiều tấm tôn chìa ra như những mái hiên. Căng trầm ngâm nhìn theo và nói:
- Ðêm qua cô ả cất tiếng mời chúng ta ăn mực. Ðó là cách báo hiệu hiểm nguy mà tôi quên khuấy mất... Lỗi tại tôi, óc tôi lú quá rồi...
Hoan hỏi:
- Ăn mực là dấu hiệu rủi ro?... Lần đầu tôi nghe chuyện ấy.
Căng khoác tay phác một cử chỉ bất bình:
- Lạ thật, chuyện vặt ấy sao anh không biết?... Người ta thường vẫn nói: Ðen như mực. Ðối với khách chơi hoa, nói như vậy có nghĩa là bể ống khói hoặc bị lũ ma cô hành hung. Tôi biết điều này nhưng vì chưa từng bị trầy da sớt thịt nên vô tình quên mất... Quả tình, Thu Cúc rất tốt với chúng ta...
- Thu Cúc?... Tôi trông người đàn bà này chẳng có vẻ Thu Cúc lẫn Ðông Cúc... Vì sao chị ta có cái tên điệu đàng như vậy?
- Anh nhầm. Chị ta vốn là con nhà tử tế và cái tên ấy là do cha mẹ đặt cho . Ðáng lẽ chị ta phải là bà chủ, còn hai con đàn bà vẫn ngủ với chúng ta chỉ đáng làm đầy tớ... Nhưng cuộc thế xoay vần... Một người luôn may mắn như anh chắc không hiểu được cái chữ oan nghiệt đó...
Hoan lặng thinh. Căng có lý. Thực ra cuộc sống của anh không thăng trầm như nhiều kẻ khác. Anh chưa từng ra tù vào tội, chưa từng bị đói khát, hành hạ, sỉ nhục, chưa từng lết trong rãnh bùn của cuộc mưu sinh... Căng nói tiếp:
-Thu Cúc vốn không đẹp nhưng ở tuổi xuân chị ta sang trọng và duyên dáng. Biết gảy đàn, biết hát, biết đánh bóng và chơi bài. Nếu trời thương hẳn người đàn bà ấy chẳng phải kéo dài kiếp sống nơi đây... nhưng có mấy người được trời thương? Dù Chúa hay Phật tình thương cũng chỉ đủ phát cho con số lẻ, còn đa phần chúng sinh ở ngoài rìa ơn mưa móc.
Nói tới đó, Căng ngoảnh đầu ra cửa:
- Thu Cúc đã quay lại với lão gù, chúng ta đi thôi.
Hoan đứng lên. Câu chuyện khiến anh tò mò. Anh chăm chú nhìn người đàn bà đang tiến đến trước mặt mình dò tìm một lịch sử bí ẩn phía sau hình dạng tầm thường ấy. Chị ta cúi đầu khi bước sang đường. Tấm khăn phủ in những hình kỉ hà xen những bông hoa lớn với gam màu quyến rũ. Cổ đeo sợi dây mảnh bằng bạc. Tất cả có vậy thôi. Một cách trang điểm giản đơn, độc đáo. Ngoài ra, anh chẳng thấy gì khác biệt. Quần áo chị ta mặc là thứ quần áo bình thường của những người đàn bà cỡ tuổi bốn mươi. Ði sau chị ta là một lão già thấp đen có bướu lưng. Một người gù đúng nghĩa. Gù dị tật như Quasimodo trong cuốn Thằng Gù ở nhà thờ Ðức Bà của Hugo, nhưng với gương mặt choắt, chòm râu dê và cặp mắt ti hí kiểu Mông Cổ. Lão gù bước những bước ngắn nhanh thoăn thoắt, và luôn luôn giữ đúng cự ly cách người đàn bà chừng hai bước chân.
Căng đứng đón họ ngay trước cửa:
- Anh trông hàng nhé, chúng tôi đi ngay đây.
Lão gù gật đầu:
- Ðược, Thu Cúc sẽ đưa các anh đi... mọi sự ổn cả thôi.
Lão bước vào gian hàng. Căng kéo Hoan đi theo người đàn bà. Họ đi xuôi dãy phố chừng hai trăm thước đoạn rẽ vào một ngõ nhỏ còn hẹp và lởm chởm hơn cái ngõ nhỏ nơi người đàn bà đi gọi lão gù. Một thứ ngõ được tạo dựng bởi những căn nhà lắp ráp từ đủ thứ vật liệu: mảnh tôn, ván gỗ, giấy lợp, bìa các-tông, săm lốp xe ô-tô cũ. Căn ngõ đó dài đặc với rất nhiều ngả rẽ khiến Hoan lo ngại. Anh chắc nếu bị bỏ rơi ở nơi đây anh sẽ chẳng tìm được lối ra và sẽ làm mồi cho một băng cướp ngày hoặc một bọn chém mướn nào đó...
Mình thật dại dột... chẳng lý do nào khiến ta phải dấn thân vào chốn này.
Căng đi trước, chừng như đoán được ý nghĩ của anh nên quay lại:
- Ðừng sợ, tôi biết cả lối vào lẫn lối ra...
Ðoạn anh nhe răng cười và nói thêm:
- Có thể tôi rành khu này hơn cả lũ trộm cắp. Cứ yên tâm.
Họ đi như thế chừng nửa giờ và sau rốt, anh nhìn thấy cây cầu thang quen thuộc, cây cầu thang ghép bởi những tấm gỗ chưa bào thường rên rỉ oằn oại dưới những bước chân nặng trĩu của anh.
Người đàn bà dừng lại trước chân cầu thang:
- Tôi về được chứ?
Căng gật:
- Cũng được...
Kỳ 112
Nhưng chị ta vừa đi được vài bước, Căng gọi giật lại:
- Thu Cúc, hôm nay xuống đòn ân oán giang hồ, có muốn xem thì ở lại.
Chị ta gật:
- Ra thế... ờ, thì xem.
Nói xong chị vòng ra phía cầu thang chui vào căn buồng bên dưới. Họ nghe tiếng kẹt cửa, tiếng dép lê trong phòng. Căng kéo tay Hoan lên cầu thang:
- Nào, theo tôi.
Lần đầu Hoan nhìn quang cảnh căn nhà chứa dưới ánh sáng ban ngày và sự xấu xí bẩn thỉu khiếp hãi của nó làm anh rùng mình. Căng đang nghĩ chuyện gì đó, im lặng. Khi tới trước cánh cửa buồng anh ta mới chợt như sực tỉnh cơn trầm tư và giơ tay gõ:
- Ai đấy?
Có tiếng hỏi vọng ra. Căng không trả lời nhưng dang tay đập mạnh khiến cánh cửa rung ầm ầm.
- Chờ tôi chút xíu...
Lại có tiếng người đàn bà cũ vọng ra. Có tiếng guốc lê vội vàng và sau đó, cửa mở. Người xuất hiện trong đó là cô gái điếm thường qua đêm với Căng. Cao lớn, gương mặt lầm lì, mắt xếch, tóc đen và rậm, trông cô ta lực lưỡng hơn đồng nghiệp nhiều. Chẳng mảy may tức giận, cô ta giương mắt nhìn Căng:
- Hôm nay anh rảnh sao?
Căng gật:
- Rảnh... không rảnh cũng bỏ việc. Con Hồng có trong kia không đấy?
Cô ta gật đầu:
- Có. Chị ấy đang ngủ.
Căng bảo:
- Ðược rồi. Trở lại giường của em đi, lát nữa sẽ có việc.
Người đàn bà đáp:
- Em chờ.
Giọng nhẹ nhàng êm dịu trái ngược hoàn toàn với thân hình vạm vỡ. Hoan hỏi Căng:
- Tại sao lại là Hồng? Cô ta vẫn nói với tôi tên cô ta là Thanh Huệ?
- Nay nó là Thanh Huệ, ngày mai nó là Bích Hồng ngày kia nó là Kim Chi ngày kìa nó là Ngọc Diệp... làm sao anh biết được tên thật của một con điếm? Nhưng thôi, quên cái chuyện tầm phào ấy đi, vào đây với tôi.
Anh ta hất tấm màn kéo Hoan vào gian buồng bên phải, gian buồng của người đàn bà có đôi mắt chó giấy, cái lưỡi ma quỷ có tên Thanh Huệ, thứ hoa thanh khiết nhất trong các loài hoa... nàng Thanh Huệ của anh đang ngủ, gương mặt lau phấn son bợt như mặt kẻ hậu sản thiếu ăn, miệng há hốc để lộ những chiếc răng thưa thớt. Mấy lọn tóc xõa trên mặt gối thứ gối trắng ngả màu loang lổ vết nước dãi không giặt sạch. Tấm vải trải giường nhàu nát lâu ngày chưa thay và mấy tấm khăn bông cuộn như nùi giẻ lau dưới chân giường...
Mình đã từng nhiều lần nằm trên chiếc giường kia, với người đàn bà xấu xí dơ dáy kia, da thịt mình trong da thịt cô ta và hơn thế nữa...
Hoan rùng mình. Nỗi hổ thẹn nhục nhã trào lên khiến mặt lẫn gáy anh nóng bỏng. Nhưng Căng không để cho anh có thời gian tra vấn lương tâm. Cúi xuống giường, anh ta nắm cổ cô điếm dựng dậy:
- Mở mắt ra... mở mắt ra, con đĩ.
Người đàn bà oằn oài dưới bàn tay Căng, miệng làu nhàu:
- Ai thế? Ai thế? Làm gì mà ngậu lên thế?
Nói xong cô ta lại đổ kềnh xuống giường vì không cưỡng lại được cơn buồn ngủ.
- Mở mắt ra.
Căng quát to:
- Mở mắt ra. Mày ngủ thật hay ngủ vờ? Dù thật hay vờ tao cũng sẽ lôi mày dậy.
Nói đoạn, anh dang tay tát vào mặt cô ta năm sáu cái liền. Tát phải rồi tát trái, mặt người đàn bà lật như tấm bánh rán đảo trong chảo mỡ. Hoan sững sờ. Anh không dè Căng cư xử như vậy. Lần đầu đưa Hoan tới đây anh ta đã mơn trớn cô điếm thật khéo léo nhẹ nhàng:
“Này em, giao bạn vàng của anh cho em đấy nhé... hãy trổ tài chiều anh ấy hết ga hết số, bọn anh không để em thiệt đâu...”
Căng nói vậy đoạn vuốt lưng cô ta với cử chỉ âu yếm của tình nhân.
- Bốp, bốp...
Hai cái tát cuối cùng, như dấu chấm cho câu gọn gàng chuẩn mực về ngữ pháp. Mặt người đàn bà đỏ dừ, vì quá đau vì quá đột ngột cô ta không thể cất tiếng kêu cũng không tìm được cách chống đỡ, cô ta buông mình như tàu cải héo dưới bàn tay Căng. Khi anh ta dừng lại, cô ta mới mở được mắt ra. Ðưa tay ôm mặt, người đàn bà rên rỉ:
- Ôi trời, đau quá mẹ ơi...
- A, mày cũng biết kêu mẹ cơ à? Mày cũng biết đau à? Vậy khi mày gài bẫy cho bọn cá trấn tiền của người ta khác có biết người ta cũng đau xót như mày hoặc còn hơn mày không?
Gương mặt người đàn bà bắt đầu hiện lên những nốt lằn tay, các vạch đỏ nổi gờ chồng chéo nhau trên cặp má không lưỡng quyền. Chiếc cằm cô ta như mũi tàu thủy, nhọn hoắt lì lợm dưới đôi tai chuột đeo hạt trai giả. Hoan nhìn rõ những sợi gân máu phập phồng trên cổ cô ta. Anh muốn bảo Căng dừng tấn trò tại đây và đi về nhưng anh biết điều đó là bất khả. Anh đành đứng nhìn màn kịch tiếp tục diễn ra trên cái sân khấu thảm thê anh vừa đóng vai kẻ chứng kiến vừa dễ bị ngờ là kẻ chủ mưu một cách oan uổng. Cảm giác đó khiến anh bứt rứt.
Căng vẫn nắm chặt gáy người đàn bà, ghé sát vào mặt cô ta tra vấn:
- Mày được bao nhiêu phần trăm, thằng chủ mày bao nhiêu phần trăm trong sáu cây vàng? Nói ra không tao đập cho nát mặt. Thằng chủ mày không dám bênh vực còn thằng cá kia xong việc cắp đít cao chạy xa bay rồi... giờ đây nó đã diện sắc phục đeo lon đeo hàm trở lại làm người chiến sĩ bảo vệ an ninh người cảnh sát của nhân dân... mày có gào lên giữa bốn bức tường này cũng vô ích.
Cô điếm im như thóc. Hoan biết Căng có lý. Cô ta không dám và không thể kêu cứu. Tất cả những kẻ sống cuộc sống giang hồ đều phải chịu đúng luật chơi. Họ cướp bóc kẻ khác trong bóng tối và bị kẻ khác cướp bóc hoặc truy sát cũng trong bóng tối. Họ có thể thắng bại, sống hay chết nhưng không thể kêu cứu. Thế giới đen hệt đời sống của thú hoang. Không có tín hiệu S.O.S. Nhung nhúc người và hoang vu hơn sa mạc. Ở đó, tình thương là thứ thừa. Vậy mà anh cảm thấy thương hại người đàn bà đã gạt anh vào tròng, đã lạm dụng lòng tốt của anh một cách giảo quyệt và tàn nhẫn. Cô ta đang vặn vẹo toàn thân dưới những ngón tay sắt của Căng, cố sức gỡ nắm tóc đang bị kéo giật về phía sau và càng lúc càng xoắn lại:
- Trả lời tao, bọn chó thí cho mày bao nhiêu?
- Ối chao, ối chao ơi...
Kỳ 113
Tiếp theo
Cô ta tiếp tục rên rỉ, coi đó là phương sách duy nhất có thể cứu gỡ trong tình cảnh này. Sự im lặng thú nhận. Nhưng Hoan không thấy căm giận kẻ tội đồ:
Rõ ràng cô ta gài bẫy hại ta. Nhưng đó là sự mưu sinh của kẻ cùng đường. Hoàn toàn chẳng giống trò lừa gạt của mẹ con bà Kim Lan ngày trước...
Anh nhớ màu rượu vang trong những chiếc ly thủy tinh Bô-hêm, hai mẹ con bà trưởng cửa hàng xúng xính váy áo và cái kí ức khiến anh động tâm trước người đàn bà rạc rài khốn khổ đang bị hành hạ trước mắt mình.
Không, ta chẳng có chút uất hận nào trong sự rủi ro này... ta có mất một số tiền, nhưng chẳng ai xúc phạm danh dự, làm tổn thương tâm hồn ta. Cái đó, mới chính là thứ cần bảo trọng. Ta không thể đứng ở đây, chứng kiến màn kịch tồi tệ này...
Anh cất tiếng:
- Này Căng, tôi có việc.
- Không.
Anh ta nói gần như quát:
- Anh không cần bố thí lòng nhân đạo với loại chó cái này. Cách đây nửa năm, nó cũng đã lừa một khách chơi cho bọn ma cô trấn. Ðể tôi ra đòn cho nó biết luật lệ.
Hoan nhắc lại:
- Tôi có việc. Tôi phải về.
Căng cười nhạt:
- Anh không thể về theo lối quen vì sẽ chạm trán nhiều người. Giờ đang lúc nửa trưa và gần hết dân thành phố biết mặt anh. Còn lối vòng qua hẻm ngoài Thu Cúc với tôi chẳng ai đưa anh đi nổi... liệu anh có dám mò mẫm trở về một mình chăng?
Hoan im lặng. Anh biết anh không thể. Anh là kẻ có máu mặt trong thành phố, chắc chắn những ổ lưu manh trộm cắp lẫn những gã tài tử đói ăn đều muốn chờ cơ hội tốt để ra tay. Là một ông chủ lớn nhiều khi cũng phiền phức...
Thấy Hoan không nói gì thêm, Căng hạ giọng tiếp:
- Thôi được, lát nữa chúng ta sẽ về... tôi kết thúc trò chơi thật nhanh cho anh được giải thoát.
Dứt lời, anh ta cất tiếng gọi:
- Thu Cúc, Thu Cúc...
- Tôi đây.
Có tiếng đáp tức khắc và người đàn bà trùm tấm khăn hoa bước vào.
- A... a... a... a...
Một tiếng thét xé lên, âm thanh chói sắc như lưỡi lam rạch đôi màng nhĩ và Hoan thấy cô điếm đang quằn quại dưới bàn tay Căng vụt chồm về phía trước. Bằng bước nhảy của loài hổ vồ mồi cô phóc tới chụp cả hai bàn tay lên gương mặt kẻ mới đến. Những móng tay sắc nhọn cào roạt một tràng khiến Thu Cúc hét lên. Chị ta lùi lại một bước để tránh đối thủ và trong động tác ấy, chiếc khăn trùm đầu bị giật tung phơi cái sọ trơ trụi không sợi tóc:
- U ú ú...
Thu Cúc rú lên. Chị ta ngớ ra trong một giây vì hổ thẹn và sau khi biết chắc chắn cái đầu trọc lóc của mình đã bị phơi trước mặt kẻ khác cơn hoảng hốt đó biến thành thù hận điên cuồng. Mặt chị ta ngả trắng như vôi, những vết nám rắc như đám đậu đen trên gò má, cặp mắt lạnh lẽo và u sầu thường nhật bỗng long sòng sọc như mắt loài cọp dữ:
- Con đĩ Hồng...
Người đàn bà thong thả buông từng lời, và Hoan nhìn thấy mắt chị ta dâng lên dòng lũ thù hận đã tích tụ qua bao nhiêu năm tháng.
- Con đĩ Hồng, giờ mày sẽ biết tay tao...
Chị ta tiếp tục nói rất khẽ, thong thả tách từng âm tiết. Cặp môi tô son khẽ nhếch lên cười. Những vết cào rớm máu chạy rần rần như đám giun bò trên gương mặt. Bất chợt, từ bức tường giáp tấm màn che, người đàn bà nhảy một bước phóc lên giường. Chị ta chồm lên tấm thân đối thủ, dằn cô ta xuống, bóp cổ cô ta với hai bàn tay xương xẩu như tay đàn ông, những ngón tay dài móng vuông và vàng khè:
Ðó là những bàn tay của người đã từng chơi bóng...
Hoan thoáng nghĩ khi chứng kiến tấn kịch. Căng há hốc mồm, anh không ngờ cô điếm Hồng rẫy được khỏi những ngón tay cứng như sắt nguội của mình và rạch lên mặt Thu Cúc những móng vuốt dữ dằn như thế. Trong tay anh, còn lại nắm tóc xơ xác. Hai người đàn bà lao vào cuộc xâu xé. Hai kẻ khốn cùng. Không chồng không sinh nở. Một người đầu trọc lóc người kia để lại những nắm tóc xác xơ trong tay kẻ hành hung... Căng, sau khi qua cơn thảng thốt bắt đầu tức giận. Anh ta thả nắm tóc trong tay xuống sàn:
- A, con khốn nạn... mày dám làm như thế trước mắt bố mày đây...
Nghiến răng lại, Căng giật đầu cô điếm Hồng ra phía sau. Tức khắc, Thu Cúc nắm tay thụi xuống mặt cô ta.
- Thôi, thôi đi...
Hoan cất tiếng quát. Anh không ngờ mình có khả năng quát to như vậy:
- Dừng tay lại... tôi không muốn xảy án mạng ở đây. Hai người không dừng tay lại tôi sẽ gọi cảnh sát, rồi muốn ra sao thì ra.
Chưa bao giờ anh nói to như thế trong đời. Anh, con trai ông giáo Huy, được dạy từ nhỏ rằng chỉ những kẻ lố bịch mới làm ầm ì trước mặt người thứ ba. Vậy mà tiếng quát của anh có hiệu lực tức thì. Căng bảo Thu Cúc:
- Thôi, buông nó ra.
Thu Cúc giáng nốt quả đấm cuối cùng xuống gương mặt nhòe nhoẹt máu của cô điếm. Máu vẫn tiếp tục chảy từ cánh môi rách và bên lỗ mũi dập nát. Thu Cúc nhặt mảnh khăn dưới đất trùm lên đầu. Chị ta quay mặt vào tường chẳng nhìn ai. Rồi ra đi. Chị biến rất nhanh sau tấm màn. Không nghe thấy cả tiếng chân trên cầu thang. Căng bảo Hoan:
- Về thôi.
Ðoạn anh ta quay lại cô điếm nằm rũ rượi như cái xác vô hồn:
- Hãy nhớ kĩ lần này đồ chó cái... trấn lột của thiên hạ cũng không quá dễ đâu.
Chùi tay vào đùi, anh ta nói vọng sang ngăn buồng bên kia:
- Anh về đây, bữa khác gặp.
Tiếng người đàn bà đáp lại:
- Dạ, em chờ...
Hai người đi xuống, tiếng chân họ nện trên cầu thang nghe rõ mồn một. Khu này, vọng động của phố phường mơ hồ tan trong không gian hiu quạnh. Cư dân túa các ngả, đoàn quân nô dịch của phố phường, những người bới rác và móc cống, những kẻ mua lông gà lông vịt giấy vụn đồng nát bàn là bếp điện hỏng cốc chai vỡ và một trăm lẻ một thứ đồ táp nham phế thải của cuộc sống nơi đô thành. Ban ngày, chỉ còn lại những người già không làm nổi việc gì, những kẻ tàn tật hoặc những người ngớ ngẩn điên khùng. Những kẻ khốn khổ đó chui rúc trong bóng tối hoặc ngồi lật lưng phơi nắng trước cửa. Mấy bà già da mốc thếch như da trăn rờ rẫm vãi từng hạt cơm quanh bu gà. Hoan biết buổi tối con cháu họ sẽ đem bu gà đó ra chợ. Ðoạn khu chợ chỉ họp lúc nhọ mặt người, bán vội vàng qua quýt cho những kẻ ít tiền, những gã móc túi hoặc đám thi sĩ nổi hứng bất kì lúc hoàng hôn... khu ngoại ô buồn thảm phơi dưới mắt Hoan. Ðã bao lần anh qua đây nhưng hôm nay là lần đầu tiên anh nhìn nó dưới ánh mặt trời. Bỗng dưng anh buồn. Chân tay anh trở nên đờ đẫn. Những ý nghĩ lướt qua óc anh u ám như những đám mây đen chầm chậm lướt qua khung trời mùa đông.
Kỳ 114
Anh nhận ra mình đã đến trước quán cà-phê Thu Cúc với lão gù. Lão đang đứng trước cửa, đưa cặp mắt ti hí nhìn anh. Căng đã ngồi hút thuốc phì phèo. Không thấy Thu Cúc. Lão gù hỏi:
- Hai anh dùng gì?
- Cho ấm trà sen đi... a mà thôi, sáng nay tụi tôi vừa uống trà Hồng Hoa rồi. Cho hai tách cà-phê nóng, thứ hảo hạng, pha cà-phê đểu tôi hắt ra đường...
Căng đáp, giọng nửa bỡn cợt nửa đe dọa. Hoan hỏi:
- Quán này có mấy thứ cà-phê?
Căng đáp:
- Ít nhất cũng năm loại, phải không anh gù?
Lão gù xác nhận:
- Chính xác. Năm loại.
Căng đắc ý kể:
- Trước hết là loại cà-phê rửa bát loãng ngoét bán đại trà cho mọi loại phu phen thợ thuyền, xích lô, ba-gác, thợ làm đường và lũ trẻ con nhà nghèo học đòi tập toạng. Loại thứ hai đã có ít mùi cà-phê gọi là cà-phê áo ngắn, khá hơn chút đỉnh, bán cho học sinh trung học và dân buôn đầu đường xó chợ, những người gánh hoa quả rong. Loại thứ ba là loại cà-phê trung bình ở tất cả quán trong thành phố, người nào uống cũng được, nước đã sánh hơn đậm hơn được gọi là cà-phê sinh viên. Loại thứ tư chính hiệu Buôn Mê Thuột ngon thơm đặc sánh pha phin lẻ, nước sôi ngâm tách, giá đắt gấp đôi thứ cà-phê sinh viên là cà-phê công tử, dành cho đám con nhà giàu hoặc những sinh viên được gia đình chu cấp biệt lệ. Loại thứ năm là tuyệt đỉnh, tôi đang gọi đãi anh, cũng là cà-phê Buôn Mê Thuột, nhưng đòi hỏi kỹ thuật rang sấy cầu kỳ, bao nhiêu lượng mỡ gà, bao nhiêu bơ, bao nhiêu muối rang trong thời gian bao lâu, ngọn lửa thế nào và được ủ ra sao trước khi xay... tất thảy đều là bí quyết. Hơn nữa, khi pha, phải pha đúng kiểu Pháp thuộc địa, kiểu đó chỉ có những tay bếp Tây ngày xưa nắm được rồi truyền lại đến bây giờ... Căng nói say sưa, sùi bọt mép, như cậu học sinh thuộc bài từ lâu đợi mãi mới có dịp lên bảng đọc thuộc lòng. Hoan phì cười:
- Anh giỏi thật. Tôi là dân gốc ở đây mà chẳng rành.
Căng cười ngất ngư:
- Trời cho mỗi người mỗi lộc. Tôi chẳng buôn may bán đắt như anh nhưng trời cho tôi một trí nhớ thần kỳ tất thảy những gì từ năm tôi ba tuổi tới nay tôi nhớ như buổi chiều hôm qua.
Lão gù bưng ra hai tách cà-phê nghi ngút khói. Mùi thơm tỏa ngào ngạt khắp gian phòng. Hoan nói:
- Thơm thật... lần đầu tôi ngửi thấy mùi thơm đặc biệt thế này. Thật không ngờ...
Căng cả cười nói tiếp:
- Không ngờ cái quán ghẻ lở nơi ngoại ô lại có thứ đồ uống xịn thế phải không?... Nào, mời...
Anh ta bưng tách cà-phê lên hít ngửi một hồi rồi hỏi chủ quán:
- Lúc nãy Thu Cúc có rẽ vào đây không?
Lão lắc đầu:
- Không, cô ấy đã về thẳng nhà.
- Con đĩ Hồng nhảy bổ vào chị ấy, tôi không kịp đỡ.
- Con rắn độc mặt lưỡi cày ấy nham hiểm lắm.
- Nó cào Thu Cúc xước mặt.
- Rồi tôi sẽ bắt nó trả nợ ba lần.
- Anh tìm thuốc cho Thu Cúc.
- Khỏi lo. Tôi có thứ mỡ chuyên bôi sẹo và thứ rượu thuốc dành cho đám võ sư.
- Nhưng chúng tôi cũng đập nó nát mặt.
- Chưa đủ.
- Tôi định hiếp cho nó bại xương hông nhưng anh bạn đây đòi về.
- Cứ để nó đấy. Khắc có người lo.
- Anh không sợ thằng mặt dầy bán thuốc lá à?
- Thằng đó nhiều nợ với tôi... Vả chăng nó đã kiếm được mấy con bò lạc mới sắp thải con đĩ Hồng.
- Anh đã thấy mấy con bò lạc đó chưa?
- Rồi.
- Có con nào khá không?
- Cũng tạm... Toàn dân xứ biển trốn làng ra đây, chẳng ngon mắt nhưng khỏe như trâu đực. Thứ ấy đến bò nhảy cũng không chết.
- Còn non không?
- Non. Lớn nhất mười chín, nhỏ nhất mười lăm.
- Có đứa nào còn trinh không?
- Ðừng mơ. Gái xứ biển dâm vô độ. Chúng toáy hoáy từ thuở dậy thì.
- Thôi cũng được, chọn cho chúng tôi hai con khá nhất.
- Ðược.
- Anh cứ bảo thằng béo chính tôi yêu cầu.
- Ðược.
- Hiện chúng đang bị nhốt ở chuồng nào?
- Cách đây hai mươi cây số. Lão đang tập nghề cho chúng... Anh có thích mò xuống đó chơi non hay không?
- Cũng hay. Bọn gái chưa thành thục cũng có cái thú riêng. Hôm nào đi được báo cho tôi.
- Yên trí, tôi sẽ báo cho anh thật sớm.
Căng nhấp ngụm cà-phê thứ nhất, khà một tiếng. Hoan đã uống gần cạn tách cà-phê. Cà-phê ngon thật. Hoan không ngờ trong cái quán bẩn thỉu tồi tàn này có thể kiếm được thứ cà-phê ngon đến thế. Cách sao rang tẩm xay có bí quyết nào đó khiến vị cà-phê thơm ngậy, cùng một lúc mùi mỡ gà mùi bơ mùi muối mùi than lửa hòa quyện thành thứ mùi siêu việt khôn tả. Giá chi anh học được bí quyết này để về rang xay cà-phê uống sáng sáng nơi Xóm Núi?... Ý nghĩ ấy vừa chợt đến đã khiến anh giật mình sững sờ: Xóm Núi còn đó nhưng mái ấm của anh đâu còn?... Chỉ có ông già Lư chăm sóc vườn tược và ngày ngày Miên đưa cu Hạnh về chơi. Vợ anh trở lại nhà như vị khách thường nhật, còn anh, anh là vị khách hàng tuần. Ngày Chủ Nhật anh quay lại gặp đứa con trai khi Miên vắng mặt.
- Thế nào, anh có thể liệt cà-phê quán này là hạng nhất thành phố không?
Căng cất tiếng đột ngột hỏi. Và anh, giật thót mình gật đầu:
- Nhất, nhất... nhưng vì sao không trưng bảng quảng cáo hoặc đề giá từng loại cho khách hàng?
Căng cười sằng sặc:
- Vì chủ nghĩa xã hội không chấp nhận một tách cà-phê này đắt gấp năm lần hay mười lần một tách cà-phê khác... Xã hội của chúng ta là xã hội của sự công bằng.
Ðặt tách cà-phê xuống, anh ta mím môi lạ, nụ cười tự dưng biến mất trên gương mặt vô cảm, gương mặt đã quá quen thuộc với anh. Hoan dè dặt nói:
- Ờ, tôi nghĩ nhà nước có lý của họ.
Căng nhìn anh:
- Anh nghĩ thế thật hay vờ?... Anh có tin rằng trên đời này có sự công bằng hay không?... Tôi chưa từng nghĩ tới điều ấy kể từ khi tôi biết mặt chữ. Sự công bằng, tự tay tôi thiết lập trong chừng mực tôi có thể... Ðó, anh vừa nhận ra sự công bằng tôi tạo dựng trước mắt anh. Con em gái tôi nõn nường xinh đẹp như vậy phải bán trinh cho gã lái trâu lấy nửa chỉ vàng, trong khi một con điếm già tã tượi mỗi lần nằm ngửa lại được anh cho mấy tờ bạc lớn, không những thế còn lừa anh cho bọn cá và thằng chủ lầu xanh trấn lột... Ðiều đó có gì giống với sự công bằng anh nghĩ không?... Không... Vậy tôi phải tự tay thiết lập sự công bằng trên cái mặt dày của nó... Còn nữa, một người như Thu Cúc, vợ anh bạn gù đây có đáng sinh ra để làm cái nghề đốn mạt này không?... Không. Nhưng chị ấy đã bị số phận xô đẩy và phải lăn lưng xuống bùn. Thu Cúc đã học đại học luật năm cuối. Quê chị ấy ở Nha Trang. Chị ấy lưu lạc tới đây sau ngày giải phóng, chẳng phải thứ dân thất học như tôi...
Kỳ 115
Trán Căng nhăn lại trong khi anh ta nói, gương mặt anh ta xanh xám, vệt gân đen nổi giữa sơn căn. Hoan không khỏi kinh ngạc: Một gã thất học trồi từ bùn đen lên, thán phục và thương cảm một người đàn bà xuất thân từ tầng lớp trên bị sóng đời vùi dập trong khi thẳng tay đánh đập tàn nhẫn một người đàn bà khác cũng bùn lầy dơ dáy như gốc rễ của gã, như bản thân gã... Và động cơ trước hết là sự chênh lệch giữa hai món tiền bán mình, cái duyên cớ thúc đẩy lòng căm uất và cho phép gã thiết lập sự công bằng như gã muốn?... Thật sự, anh không hiểu nổi cái lô-gích đời sống này. Cái cuộc sống anh đang phải chấp nhận dù anh ước muốn được xa cách mãi mãi. Cái cuộc sống anh đang đối diện từng ngày từng giờ mà không ngừng ao ước cuộc bỏ trốn. Cái cuộc sống hòa trộn gương mặt vô cảm của gã lái buôn Căng với đôi mắt chó giấy tô vẽ của cô điếm
Hồng, cái đầu trơ trụi không sợi tóc của nàng Thu Cúc với màu son đỏ chói trên làn môi dầu dãi, những bàn tiệc và chiếc thau nhôm chứa nước tiểu trong gian nhà chứa, chốn đại tiện công cộng được thỏa thuận cho giới đàn ông... Ðó, chính là gương mặt thật cái cuộc sống anh phải chấp nhận, thô lậu xa xỉ khốn cùng. Chỉ tới hôm nay, anh mới thấu suốt. Giống một ngày thu trong veo chợt ta nhìn rõ những vẩn mây lơ lửng tít khung trời.
Hoan đưa tách cà-phê lên môi uống cạn những giọt cuối cùng. Những giọt cà-phê đặc sánh thơm nức khiến anh nhớ những nương cà-phê chín đỏ, nhớ không khí mùa thu hoạch trên Xóm Núi, đám thợ hái cà-phê đi lại trò chuyện giữa các rặng cây, trời thênh thang, gió thổi, chim hót, tiếng sáo của lũ trẻ chăn dê từ các sườn dốc vọng về... Anh nhớ. Hồi nhớ không sót một mảy may cuộc sống anh từng sống. Anh thấy Miên đi giữa những nương vườn, tay này chị xách chiếc giỏ tre đựng thẩu chè đậu xanh đãi thợ và tay kia xách ấm trà tươi lớn, chị cười nụ cười mê hồn gương mặt ửng hồng với những giọt mồ hôi lấm tấm trên môi, cặp mắt đen láy nhìn anh qua đám lá cành, chờ đợi, e ấp như thời thiếu nữ chưa qua... Bây giờ, anh đã biết rằng anh chẳng bao giờ có cuộc sống thật sự nơi đây, trong thành phố này, nơi chẳng ai xót thương ai và tất cả bán mình cho đồng tiền trong túi. Ở đây, dù thành công hơn nữa, xây mười một ngôi nhà lầu anh cũng không sung sướng. Chỉ có một người có thể đem lại sinh khí cho cái thực thể mang tên hạnh phúc, người đó là Miên. Chính chị mới là cột trụ của cuộc đời anh, kẻ khai tạo niềm vui và nguồn vui sống. Chính chị là người bảo trợ cho anh. Xét cho cùng, người đàn ông như anh là kẻ yếu. Anh chẳng phải gã đàn ông có gương mặt vô cảm ngồi trước mặt anh kia. Gã, kẻ hùng. Gã yêu tiền, sung sướng vì tiền. Thế là đủ. Anh, con vật yếu đuối cần tình yêu. Chỉ một người có thể mang lại cho anh điều đó. Người ấy là kẻ mạnh. Người ấy đã bỏ anh ra đi vào một sớm sương mù, với bị cỏ Thạch trinh hương. Cuộc ra đi giống cuộc ra đi của kẻ tử thù. Nhưng chị đã quyết. Và chị bỏ anh côi cút sau lưng. Và cuộc đời xô đẩy anh đến bến bờ rác rưởi này... Sớm ấy sương mù... Tại sao lại có một buổi sớm sương mù như thế sau những ngày hạnh phúc?... Tại sao vô vàn những hạt sương trên lá cành vườn tược rớt xuống mặt anh?...
- Anh làm sao thế?...
Căng cất tiếng hỏi đột ngột và nhìn chòng chọc vào mặt anh.
Hoan vội vã chớp mắt:
- Có con muỗi vừa bay vào mắt tôi...
Anh ta im lặng, đầy vẻ hồ nghi nhưng không gặng thêm. Rồi lát sau anh ta hỏi:
- Về chứ?
Hoan gật đầu:
- Về.
Căng rút ví:
- Tôi trả chầu cà-phê này.
Hoan gạt đi:
- Ðể tôi.
Nhưng anh ta lắc đầu quầy quậy:
- Không. Riêng lần này tôi trả. Tôi đang sướng. Những lần khác anh trả là hợp lý. Anh giàu gấp trăm lần tôi và nhờ tôi anh hiểu thêm được chuyện đời.
Nói rồi Căng quay lại bảo chủ quán:
- Nhớ món hàng tôi dặn... Hai con bò xứ biển, chọn loại thịt chắc nhưng đừng đen quá... Ngon lành đến mấy mà da đen xì cũng hết thú chơi...
Chương 20
Vào mùa săn, việc nương vườn trễ nải. Các ông già bà lão ngồi uống nước chuyện vãn ngóng tin con cháu. Ðám đàn bà ra ra vào vào ngóng chồng. Lũ trẻ biếng chơi, tụ tập chờ tin cha anh, mỗi lần có toán thợ săn trở về là chúng phóng như bay đến xem rồi lại phóng như bay đi khắp nơi loan báo. Tất thảy mọi đôi tai đều dỏng lên chờ hiệu kèn báo đoàn săn thú trở về. Không khí vừa khắc khoải, bồn chồn vừa nao nức như ngày hội. Khó ai đủ kiên tâm lên nương rẫy lúc này. Xóm thôn cứ lặng ngắt trong cơn hồi hộp như thế cho tới lúc mùa qua...
Một sớm, đứa con trai lớn của Xá chột tới nhà Bôn réo ầm ĩ từ ngoài ngõ:
- Chú Bôn... Ớ chú Bôn... Cha cháu nhủ chú sang uống rượu.
- Chú Bôn..., ớ chú Bôn...
Bôn còn đang ngái ngủ, thằng bé đã đập cửa buồng thình thình:
- Chú Bôn, mở cửa mau.
Bôn vừa bật chốt cửa, nó đã chạy tọt vào vừa thở hồng hộc vừa nói:
- Chú mau sang mà xem... Nhiều lắm, nhiều lắm... Hai con gấu ngựa này, ba con hươu với mạ heo độc nặng ngót hai tạ... Bố cháu bắn con heo độc đó, nhủ chú mau sang ăn thịt nướng.
Bôn hỏi:
- Họ đang chia thịt hả?
- Dạ.
- Chia ở đâu vậy?... Nhà trưởng thôn à?
- Không... Nhà cụ trưởng phường.
Thằng bé đáp với vẻ khinh khỉnh. Tuồng như nó không hiểu vì sao anh cất tiếng hỏi ngớ ngẩn như vậy... Bôn chợt nhớ rằng trong mùa săn, mọi chức sắc của đời sống thế tục bị đẩy lùi xuống hàng thứ yếu và người thực sự có uy quyền là người thợ săn giàu kinh nghiệm nhất, biết đoàn kết anh em trong phường, biết dẫn họ đi theo những lối may mắn, biết chọn giờ xuất hành tốt nhất để săn được nhiều thú và tránh những rủi ro... Anh bảo thằng bé:
- Cháu về đi... Lát nữa chú sang.
Thằng bé chỉ chờ câu nói đó là cắm cổ chạy đi liền. Bôn chắc bố nó cùng đám bạn phường đang chia thịt. Cuộc chia bôi xem chừng phải hàng giờ mới xong. Theo lệ cũ, bất kỳ người thợ săn nào hạ được con thú cũng chỉ được hưởng một đùi tức là một phần tư con mồi. Ba phần tư còn lại được xẻ làm đôi, nửa chia cho anh em cùng phường nửa chia cho các hộ trong làng. Bởi thế đến mùa săn dù nhiều dù ít nhà nào cũng được thịt rừng và hễ là dân trong phường dẫu năm ba mùa liền chẳng bắn trúng con thú nào cũng vẫn được chia phần thịt đều như những người khác. Chỉ một tiếng nữa thôi, cả làng sẽ vang lên tiếng chày cối chí chát, tiếng dao băm xuống thớt, tiếng gọi í ới vọng qua các bức rào và không gian sẽ ngào ngạt mùi thịt nướng hoặc mùi phi hành tỏi...
Kỳ 116
... Ta nấu nồi thuốc đã, uống xong sang cũng vừa...
Bôn nghĩ vậy. Anh xuống bếp đun nồi nước lá Dâm dương hoắc. Trong nhà còn một bát thuốc bổ khác chờ anh. Thứ thuốc ấy, chính cụ Phiều dạy anh nấu. Sau một thời gian sức lực anh khá lên đôi chút, cụ đã khuyên anh kiên trì uống cao dê. Thứ cao dê chuyên trị thận hư đau lưng, gân cốt yếu, hay đổ mồ hôi ban đêm, lòng bàn chân lẫn bàn tay sinh nhiệt, luôn bị táo bón và da lông khô ráp. Tất thảy các hiện tượng lâm sàng đều ứng đúng với Bôn, như thế anh phải uống bài: Ích âm bổ thận, cường tráng gân cốt. Bởi vì, theo cụ Phiều, không những anh hao tổn dương khí mà âm khí cũng tiêu tán, tì phế đều nhược, cần thay đổi các phương thuốc theo từng giai đoạn mới có thể cân bằng âm dương, di dưỡng sinh khí. Bài thuốc cụ bày cho anh không quá cầu kì nhưng cũng tốn công sức. Anh phải kiếm đủ tủy xương dê nấu chín, mỡ dê rán, mật ong trắng, gừng tươi, và củ địa hoàng tươi. Tuy nhiên, tất thảy những thứ đó đều mua bằng tiền của Miên, những đồng tiền rút từ túi áo chị. Sáng sáng, Bôn hòa cao dê với nửa bát nước sôi và nửa bát rượu uống thay trà. Sau khi thuốc ngấm, mồ hôi thoát ra ướt đẫm lưng áo, anh cảm thấy mình khỏe như thời mười tám, có thể chiến thắng mọi trở lực và làm cho Miên có thai ngay đêm ấy... Nhưng cảm giác sảng khoái và niềm tin đó chỉ tồn tại nửa giờ. Khi mồ hôi lạnh trong lưng, những cơn đau lại tới, những mối u hoài lẫn sự tuyệt vọng lại xô anh xuống dòng nước và anh chơi vơi như kẻ sắp chìm... Lần hồi, anh không còn biết mình phải làm gì?... Anh vẫn uống thuốc như một cái máy đúng giờ nạp điện là nạp điện. Anh vẫn hy vọng phục hồi, vẫn không bỏ qua bất cứ lời khuyên nào, không đánh mất bất cứ cơ may nào để thực thi ước muốn... Nhưng cùng lúc ấy, có một gã đàn ông thảm đứng bên ngoài, nhìn tất thảy những nỗ lực của anh với cặp mắt chế riễu với nụ cười ảm đạm, gã đàn ông đó biết mọi nỗ lực của anh là nỗ lực của dã tràng, và trong nụ cười mỉa mai u ám của gã anh thấy một con thuyền gãy lái, cánh buồm tơi tả vẫn không ngừng bơi, không ngừng bơi...
- Chú Bôn... ớ chú Bôn...
Thằng con Xá chột đã quay lại, đang gào ngoài cổng với giọng bất mãn không che dấu:
- Bớ chú Bôn, cha cháu đang chờ chú ở nhà.
- Ờ, chú sang, chú sang ngay đây...
Bôn không ngờ cuộc chia chác chóng vánh như vậy. Anh vào buồng, uống bát cao dê hòa rượu rồi đi. Trưa nay, anh sẽ uống rượu với Xá. Sẽ bớt được một buổi trưa buồn tẻ vì theo lệ thường anh ăn bữa trưa một mình. Từ ngày Miên đưa con trai trở lại nhà cũ, họ chỉ ăn chung bữa duy nhất vào lúc tối trời. Sáng nào, Miên cũng dạy trước anh, nấu cho anh óc cơm nếp rồi sang nhà dì Huyên. Óc cơm nếp ấy anh ăn với thịt hoặc cá chị đã kho sẵn. Trưa anh có thể nấu chút cơm nóng ăn với canh rau hoặc bầu bí luộc. Nếu không, anh nấu bát cháo tiết dê hoặc cá riếc với thuốc nam theo cách chỉ dẫn của cụ Phiều. Chỉ đến buổi tối anh mới cảm thấy mình được quyền làm chồng, có một người đàn bà ngồi đối diện bên mâm cơm. Chỉ buổi tối, gian buồng của anh mới trở thành một mái nhà cho dù dưới mái tranh ấy anh không dám nghĩ anh có một tổ ấm, hoặc một cái tổ mà kẻ này ấm còn người kia lạnh...
... Dẫu sao, trưa nay ta cũng sẽ được vui vẻ... Dẫu sao, Xá cũng là người bạn chân tình chẳng ai sáng được....
Ý nghĩ đó được anh kéo dài, nhấm nháp như đứa bé nhấm nháp mẩu bánh và khi bước chân qua ngưỡng cửa nhà bạn anh vẫn còn lâng lâng vui.
Xá chột ngồi khoanh chân trên phản đợi anh. Chai rượu thuốc trước mặt, đôi đũa gác ngang miệng bát. Chiếc mâm đồng lớn đặt chính giữa phản, trên đó lò than hoa đang nổ tí tách, cạnh lò là chiếc thẩu lớn bằng gốm da lươn đựng đầy thịt ướp. Bôn biết đó là thịt heo rừng, mạ heo độc đã ngã dưới mũi súng của Xá. Anh chàng sẽ được thăng lên hàng thợ cả sau chiến tích này. Săn nai, săn hươu, săn khỉ, săn hoẵng, săn chồn, săn cáo... thảy thảy đều là công việc của loại thợ cỏ, kể cả săn gấu chó cũng vậy. Nhưng một khi anh hạ được gấu ngựa, lợn lòi, hay hổ lập tức anh được lên chiếu trên, thành thợ cả hoặc thợ sơn gọng, hệt như võ sĩ Tây côn-đô được thăng từ đai trắng lên thẳng đai đen, bỏ qua đai xanh và đai nâu... Nếu con lợn lòi Xá hạ chỉ nặng cỡ tám chục cân, anh ta chẳng được vinh thăng như thế và ít nhất cũng qua vài mùa săn nữa Xá mới có thể mon men tới chiếu đàn anh, nhưng vì con vật anh ta hạ thủ nặng ngót hai tạ nên Xá đã nhảy một bước vọt lên thượng đỉnh làng săn như vậy chỉ trong một thời gian ngắn nữa, chắc chắn anh sẽ ngồi ghế trưởng phường thay cho cụ trưởng phường đang kiêm vị. Gương mặt chàng cựu chiến binh hoan hỉ. Thấy Bôn bước vào anh ta cao giọng gọi:
- Mẹ thằng cu đâu rồi?... Mẹ thằng cu đâu?...
Cô Soan chưa kịp trả lời, Xá đã quát:
- Khách đến rồi, mẹ thằng cu đâu?...
Vợ Xá dạ ran lên hai ba tiếng liền dưới bếp rồi hơn hớn chạy lên chào Bôn:
- Mời anh vào, nhà em chờ anh đã lâu.
Bôn bước vào, cô Soan cũng bước theo, hai má đỏ hây hây như đào chín:
- Thôi, hai anh nhâm nhi với nhau cho ròn chuyện. Em xin phép ăn dưới bếp với mấy đứa trẻ, mẹ con em cũng được thoải mái vui vẻ với nhau.
Nghe vợ nói, Xá chột gầm gừ trong họng như dọa nạt nhưng con mắt lành của anh ta sáng long lanh. E hèm một tiếng, Xá bảo:
- Ấy là tự cô quyết định đấy nhé, chẳng phải tôi... Giao hẹn trước không sau này lũ trẻ lớn lên lại mách: Bố chúng mày ngày xưa phong kiến bắt mẹ với các con ăn dưới bếp chỉ riêng ông ấy ngồi chiếu trên... Ðàn bà thời nay bình đẳng bình quyền đa sự lắm. Soan cười khanh khách, quay cổ lại đối đáp:
- Này bố thằng cu, em không có tài dựng chuyện cũng chẳng có nghề đơm đặt như anh. Cái kiểu đó các cụ vẫn gọi là: suy bụng ta ra bụng vợ đấy...
Nói rồi cô chạy tọt xuống bếp. Và từ dưới bếp tiếng cười của người mẹ trẻ với mấy đứa con ròn rã vọng lên. Tiếng cười làm Bôn tê tái... Giá như anh có ở lại Bản Kheo và có con với nàng Thoọng chắc chắn chẳng bao giờ cô nàng có được tiếng cười nổ như ngô rang lấp lánh bọt nước rực rỡ như nắng hạ. Tiếng cười đem lại nguồn sống cho người đàn ông... Giờ đây, liệu anh có thể có con chăng?... Với Miên, người đàn bà anh yêu mê sợ hãi, người đàn bà quyến rũ anh và cũng làm giá lạnh mọi nỗ lực của anh khiến mỗi cuộc làm tình diễn ra như cuộc tỉ thí trên đấu trường và lạnh lẽo câm nín như nấm mồ, anh có thể vượt được những chấn thương tinh thần và thể xác để gieo hạt sống vào cơ thể chị hay không?... Và nếu họ có con chắc chắn Miên cũng sẽ không cất nổi tiếng cười ròn rã sung sướng như vậy... Hạnh phúc... Phải thế chăng?... Cho đến khi giã biệt cõi đời này anh cũng không thể có được thứ Xá chột đang có... Bến bờ ấy ở bên ngoài sông nước đời anh...
- Nào, rót rượu.
Kỳ 117
Tiếp theo
Bất chợt, Xá chột cất tiếng như quát bên tai Bôn. Miệng nói, tay anh ta mở nút chai rượu thuốc:
- Hôm nay được quyền say, liệu cậu uống nổi mấy chén này?
Bôn nhìn hai chiếc chén sứ sâu lòng chưa biết trả lời ra sao Xá đã nói:
- Rượu ngon đấy nhé, thang Anh Hùng hẳn hoi.
- Thang Anh Hùng là gì?
Bôn hỏi lại.
Xá cười:
- Gọi là thang Anh Hùng vì thứ rượu thuốc này chống lại tất thảy những biểu hiệu yếu kém của người đàn ông trên giường, giúp họ có khả năng bắn liên thanh hàng giờ liền và bắt người đàn bà thụ thai bất cứ lúc nào họ muốn... Ví như tôi đây, nếu tôi đủ lực nuôi nổi một tiểu đội tôi sẽ bắt vợ tôi đẻ liền mười hai đứa sáu trai, sáu gái... Cụ Phiều đã cho cậu uống thang thuốc này chưa?
- Chưa... Hiện tôi đang ăn cao dê kèm các loại cháo bổ.
- Ờ... Vì rượu đó quá mạnh chưa hợp với tạng của cậu. Cần phải chờ thêm một thời gian. Nhưng hôm nay có thể nếm trước vài chén, chẳng sao. Cậu sẽ thấy ngon miệng hơn. Theo lý thuyết của tôi không thứ thuốc nào hiệu nghiệm hơn thuốc bổ dạ dày. Cứ ăn được khắc khỏi hết mọi thứ bệnh và sẽ có tất thảy những gì muốn có. Cậu đã ăn thịt lợn rừng nướng chưa?
- Có, vài lần.
- Ướp với gia vị gì?
- Hành và tiêu bột.
- Ngu. Phải ướp mỡ nước, hành khô, tỏi khô đập giập, tiêu xanh và thêm là húng quế. Cũng chưa đủ, lại còn phải có chút đường, chút muối, vài nắm vừng rang, ít củ sả đâm nhuyễn... Thử cúi xuống ngửi xem thẩu thịt tôi ướp có đủ các thứ mùi đó hay không. Bôn cúi xuống ngửi, xác nhận trong thẩu có đủ thứ gia vị Xá đã liệt kê, ngoài ra anh còn thấy những mảnh ớt tươi băm vụn:
- Sao anh lại cho ớt tươi vào thịt rừng?... Tôi tưởng ớt tươi chỉ làm nước chấm, kho cá, hoặc nấu canh chua?
- Ngốc. Phải có ớt tươi. Lát nữa cậu sẽ thấy mùi ớt tươi nướng hay ra trò...
Nói xong, Xá bắt đầu gắp thịt trong thẩu tải lên chiếc vỉ nướng trên lò than. Chỉ vài phút sau thịt bắt hơi than tỏa mùi thơm nồng dậy và mỗi lúc mùi thơm đó mỗi ngào ngạt hơn, đặc quánh hơn. Không còn riêng biệt mùi thịt chín tỏi hành phi mùi tiêu xanh hơ lửa hay mùi ớt cháy cùng lá húng... Tất cả hòa lại thành một hương vị không phân tách được khiến nước bọt tứa đầy. Xá luôn tay lật qua lật lại vỉ nướng cho thịt chín đều... Khi mẻ thịt đã chín tới độ, riềm những miếng thịt xém vàng Xá gỡ bỏ vào bát cho hai người đoạn anh ta gác vỉ lên lò:
- Nào, nhắm... Ăn hết vỉ này nghỉ vài phút rồi nướng vỉ thứ hai. Ta có cả một ngày để say sưa...
Họ nâng chén, nâng đũa. Món thịt nướng quả là ngon. Lần đầu trong đời, Bôn được ăn thịt rừng nướng ngon như vậy. Hai người im lặng khá lâu. Có lẽ Xá mải nhấm nháp món ăn lẫn niềm vinh quang. Vinh quang đến với anh chàng quá sớm bởi có nhiều tay súng gia nhập phường săn đến hai ba chục năm vẫn ở loại thợ săn cỏ và đến mãn kiếp cũng xếp trong đám đông chạy phía sau hiệu kèn. Xá vui ra mặt. Niềm vui đó lan sang Bôn trong khoảnh khắc, rồi nó ra đi rất nhanh:
... Ờ, ta cũng có thể kiếm được niềm vui như Xá, nếu muốn. Tay súng ta cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng thú vui đó có nghĩa gì, chẳng có nghĩa gì hết... Màu xanh nhờm tởm của núi rừng khiến ta chẳng còn ham muốn. Thợ cả hay thợ cỏ cũng thế thôi, rồi cũng ra ma, Miên cũng sẽ ra ma người đàn ông kia cũng sẽ ra ma... Vô nghĩa hết...
Những ý nghĩ bay chập chờn như đàn bướm trong óc Bôn. Thứ rượu thuốc khiến anh ngây ngất, choáng váng. Nhưng anh vẫn tiếp tục uống. Xá chột không ngơi tay rót cho anh. Họ ăn hết mẻ thịt rất nhanh. Xá nướng tiếp mẻ thứ hai. Mùi thịt nướng lẫn mùi than lửa thơm ngây ngất... Và xa vời... Tuổi trẻ anh cơ cực, anh không được hưởng những thú vui gia đình, anh không được hưởng và không biết cách nấu nướng ngon lành như Xá. Sự đơn bạc của số kiếp chẳng rời anh. Ðã có lần, anh chạm tay vào thần may mắn... cái ngày Miên bị bạn đẩy xuống suối anh đưa cánh tay ra và số phận kết trói họ... Số phận đã vĩnh viễn ràng buộc anh với người đàn bà ấy... Tại sao anh không từ bỏ Miên tìm một người nào khác?... Có thể. Trên hai trăm cô gái ế chồng ở nông trường đang chờ anh. Anh có thể trở thành ông hoàng của một cô gái lỡ thì ở nông trường như anh đã từng là ông hoàng của nàng Thoọng nơi Bản Kheo. Và dù sao đây cũng vẫn là xứ sở của anh, anh được nói tiếng mẹ đẻ, được ăn những món ăn quen từ thuở lọt lòng... Tại sao anh không thử thời vận may một lần? Tại sao anh thối chí? Không, không, đã quá muộn. Anh không còn sức để thử vận may. Vầng trăng bạc trên dãy núi Bản Kheo đã hút hồn anh, anh đã đi theo nó, đã rút tới giọt sinh lực cuối cùng. Trong cuộc hành trình ấy, máu lẫn mồ hôi anh đã tháo chảy giờ đây anh chỉ còn là một hình hài trống rỗng một nhúm da khô xác đen sạm một trái tim cạn máu giống như vỏ quả bầu khô...
- Ngon chứ hả?
Bất chợt Xá lên tiếng. Bôn gật đầu:
- Ngon... Ngon lắm.
- Sao mắt cậu lờ đờ thế kia?... Mới có vài ngụm rượu đã say à. Hèn quá...
Ngoái cổ ra sân, Xá gọi:
- Mẹ thằng cu đâu?... Cho bát cháo đậu xanh lên đây...
- Dạ... Có ngay...
Soan đáp. Chỉ nháy mắt sau chị đã bưng lên khay gõ nhỏ trên đặt một bát chiết yêu cháo nóng nghi ngút, thứ trá o đậu xanh nấu lẫn nếp sánh như hồ:
- Anh Bôn đã ngà say rồi ư?...
Chị hỏi rồi đặt tô cháo trước mặt Bôn:
- Anh ăn cháo đi, chỉ vài phút là tỉnh.
Soan đặt thêm một lọ đường với chiếc đĩa đựng muối bên cạnh tô cháo.
Xá hỏi:
- Cậu ăn cháo muối hay đường?
Soan nói:
- Cho anh ấy ăn muối mình ạ... Ăn cháo muối mau tỉnh hơn...
- Ờ thì muối...
Nói đoạn xá nhúm mấy hạt muối bỏ vào tô cháo cho Bôn. Soan lại đưa tay ngăn chồng:
- Ăn ít muối thôi kẻo lại đau thận...
Dặn dò xong người đàn bà cầm chiếc khay gỗ đi xuống bếp. Bôn bưng bát cháo ăn và đột nhiên anh nghĩ:
... Mình thèm một người vợ như Soan, như Soan... Mình có thể yêu cô ấy ngay bây giờ ngay ngày hôm nay... Và mình sẽ nói thẳng với Xá điều này...
Kỳ 118
Tiếp theo
Ăn xong bát cháo, mồ hôi vã đầy mặt và gáy Bôn. Anh rút khăn lau mặt, cảm thấy cơn chếnh choáng tan dần óc não tỉnh táo lại và ngay lúc ấy anh lạnh sống lưng: Anh vừa phạm tội. Anh vừa ước muốn vợ bạn. Trong lúc húp những miếng cháo nóng sực anh đã nhìn tấm lưng Soan, cặp mông đung đưa với những khát thèm tội lỗi, và khởi đầu sự ước muốn đó từ lúc cô cúi đặt tô cháo trước mặt anh:
... Ta thật khốn nạn... Xá là người tử tế nhất với ta...
Bôn vụng lén đưa mắt nhìn Xá, anh ta vẫn tiếp tục uống rượu với thịt nướng, đang liếm mép một cách ngon lành. Nhìn cái điệu bộ đó, thấy anh có thể chén hết cả thẩu thịt cũng chưa say. Bôn biết Xá chẳng mảy may để tâm đến những gì vừa xảy ra với mình. Anh run run thở:
- Thôi, cơm no rượu say rồi tôi về đây.
Nói rồi Bôn đứng lên ngay định bụng ra về tức khắc để quên đi cái chuyện vừa xảy ra, dù chỉ mình anh hay biết. Nhưng Xá đã quát tướng lên:
- Ðiên à?... Nghỉ một lát rồi tiếp tục uống rượu... Mấy tháng rồi cậu mới tới nhà tôi. Bôn đáp:
- Anh bận, tôi chẳng dám quấy.
Xá lắc đầu giận dữ:
- Cậu tịt ngay cái giọng khách sáo thị thành ấy đi... Tôi đang có chuyện muốn hỏi cậu... Ngồi xuống.
Giọng anh ta đầy uy lực và sự ngay thẳng nhiệt thành của anh cũng đầy uy lực. Bôn đành ngồi xuống phản. Con mắt lành của Xá chăm chú hướng về anh:
- Tôi nghe nói cô Miên dẫn thằng con trở về nhà cũ.
- Phải.
- Cô ấy có nói gì với cậu không?
- Ðứa bé muốn có chỗ chơi. Ở đó sân rộng vườn rộng nó có thể đạp chiếc xe ba bánh. Hơn nữa Miên còn nương vườn, cô ấy cần xem xét công việc.
- Và cậu phải chấp nhận?
Bôn không đáp.
Xá tự trả lời:
- Cũng phải chấp nhận thôi. Lẽ ra, cô ta có thể cự tuyệt quay về với cậu từ đầu, nhưng tôi nghĩ cô ta vẫn còn thương cậu đôi phần... Hoặc nói cho đúng hơn, cô ta chịu hy sinh thân mình để bù trả cho những thiệt thòi của cậu... Nhưng sự hy sinh nào cũng có giới hạn. Tôi đã lường trước việc này...
Bôn đứng lên:
- Anh lại sắp nhắc tới hai trăm cô thanh niên xung phong quá lứa và yêu cầu tôi tới đó phải không?... Tôi chán lắm rồi...
Xá quắt mắt quát:
- Cậu đừng sĩ... Giờ bụng có muốn tới đó cậu cũng chẳng dám đi. Tôi biết tỏng điều ấy...
Trán Xá cau lại, cày một dãy vết nhăn sâu gương mặt anh ta có một vẻ gay gắt và chua xót lạ lùng. Bôn không chịu nổi ánh mắt dữ dằn của Xá nên đành cúi mặt im lặng. Xá bảo:
- Làm sao phải sĩ diện thế? Mà lại sĩ diện với tôi? Tôi có định tranh cướp cô Miên với cậu đâu? Tôi có phải là tình địch của cậu đâu? Tại sao phải giữ cái thói sĩ diện thối tha ấy?
Càng nói giọng Xá càng cọc cằn giận dữ và những nếp nhăn càng đào sâu thêm trên trán anh ta, dưới món tóc mà lần đầu tiên Bôn nhìn thấy vài sợi bạc:
... Phải, ta là kẻ thối tha, vì anh ấy thương ta thật lòng. Xá phải lo kiếm tiền nuôi vợ nuôi con, tu tạo cửa nhà, một trăm thứ việc nhưng vẫn còn phần áy náy cho ta...
Gạt chiếc bát sang một bên, Xá nói tiếp:
- Cậu nên biết rằng nếu có cuộc tranh chấp giữa cậu với một người đàn ông khác, hẳn tôi phải đứng về phía cậu... Chúng ta, những kẻ đã chia sẻ thiệt thòi, có chung nhiều mất mát... Tôi biết nỗi đau cậu phải chịu và tôi chỉ mong những tốt lành đến với cậu. Sao cái sự đơn giản ấy cậu không chịu hiểu?
- Tôi hiểu, anh thương tôi hơn tất thảy mọi người... Nhưng anh khó thông cảm được với tình cảnh của tôi.
- Có thể...
Xá đáp, giọng dịu xuống:
- Có thể tôi suy nghĩ khác cậu và tính khí tôi khác cậu... Có thể là tôi chủ quan khi gán ghép những tính toán nhận định và cách xử thế của tôi cho cậu... Bởi vì nếu là tôi...
Nói tới đó Xá thở dài, mở nút chai rượu rót tiếp:
Bôn hỏi:
- Anh vừa nói: Nếu là anh...
Xá gật:
- Nếu là tôi... Phải, nếu là tôi khi trở về người vợ đã kết hôn với kẻ khác tôi sẽ...
Bôn tiếp lời:
- Anh sẽ bỏ đi... như nhiều người đàn ông khác... Như đa phần những người đàn ông trên đời. Những người đàn ông cao thượng trọng danh dự hơn hết thảy... Nhưng tôi chẳng cần những thứ đó. Tôi cần hạnh phúc, tôi muốn được ăn nằm và có con với người đàn bà tôi yêu... Tôi chẳng ông chồng trinh tiết hay đức hạnh. Tôi đã ngủ với những người đàn bà khác dọc đường chiến tranh và tôi biết rằng con người chỉ hạnh phúc khi được làm tình với người mình yêu...
- Bây giờ cậu hạnh phúc chứ?
Xá hỏi.
- Tôi yêu Miên và bây giờ cô ấy là vợ tôi. Tôi có thể ăn nằm với cô ấy bất cứ lúc nào tôi muốn.
Bôn đáp lại, giọng nhát gừng khinh khỉnh, vẻ mặt lạnh lùng trong lúc óc não anh liệt kê những cuộc làm tình bất khả, trái tim tê bại nhục nhã của anh rên rỉ và tâm hồn anh như mảnh vải mục đang tan mủn dần trong chất cường toan.
... Ta phải về, phải về, phải về...
Kỳ 119
Tiếp theo
Anh tự nhủ, sợ rằng chỉ một ly nữa thôi, cốc nước sẽ tràn, nồi đau đớn sẽ đập vỡ trái tim khô kiệt của anh và anh sẽ òa khóc sẽ đổ gục như thân chuối bị phạt trước mắt người bạn thuở thiếu thời:
- Tôi về đây.
Bôn nói. Xá không trả lời. Anh lại thở dài não nề và gương mặt bỗng trở nên xa vắng. Dường như trong giây lát, Xá đã quên bẵng câu chuyện họ đang nói và anh đang rượt đuổi một cơn mơ ngày hoặc một con lợn độc trong cánh rừng tưởng tượng. Sau một lát im lặng bất chợt Xá ngẩng lên:
- Cô ấy vẫn chưa có thai à?
- Chưa.
- Cụ Phiều bảo cậu còn phải chờ bao lâu nữa?
- Ông cụ chẳng nói rõ thời gian, chỉ khuyên kiên trì.
Xá nhếch mép cười:
- Chờ đợi không phải nghề của người đàn ông. Mà thời gian cũng chẳng phải cái túi không đáy. Tôi ngờ rằng cậu không còn thời gian và vì thế phải dùng các biện pháp mạnh.
Bôn im lặng. Anh biết Xá có lý. Xá hoàn toàn có lý. Anh không còn thời gian. Cuộc sống chung của anh với Miên đã trượt trên con dốc nghiêng chẳng bao lâu nữa là tới bờ. Xá nhìn anh, nói tiếp:
- Người ta có dạy tôi một bài thuốc, cậu có thể xem xem. Nếu buổi tối cậu uống một cốc cà-phê đặc pha với vài hạt muối trước khi gặp đàn bà chừng nửa giờ, cậu có thể hưng phấn bắn liên thanh khoảng một giờ liền mà nòng súng không nóng chảy, nhưng chỉ được phép làm vài lần thôi, sau đó phải chấm dứt vì phương thuốc này đốt thận. Nhưng trong vài lần tăng cường độ đột ngột như thế, tỷ lệ thụ thai rất cao.
- Cảm ơn anh, tôi sẽ xem xem...
Bôn đáp với vẻ dửng dưng nhưng thực ra anh đã nghe như nuốt lấy từng lời. Họ từ biệt. Trái với lệ thường Xá đưa Bôn ra cổng. Xá không nói gì thêm. Bôn cũng vậy.
Chiều đó Bôn ngủ một giấc dài rồi sang nhà cụ Phiều xin vài tách cà-phê rang sẵn. Dân Xóm Núi trồng cà-phê nhưng ít uống. Họ vẫn ưa uống trà búp hay nụ vối vườn nhà, vừa rẻ vừa giản tiện. Chỉ một vài gia đình khá giả trong làng thích thứ đồ uống lách cách đó. Ðứng đầu bảng là cụ Phiều. Ông già đa tình và kiêu hãnh này thường tuyên bố:
- Ðã là người phải biết sự khổ cùng cái sướng. Chẳng ngu dại gì mà không thụ hưởng những sản vật tự tay mình làm ra. Dân xứ quê nuôi gà nhưng chỉ dá ăn gà toi gà dịch, nuôi lợn nhưng chỉ dám thịt lợn còi, trồng lạc trồng đậu cũng chọn hạt nẩy đem bán còn hạt thối hạt lép dành cho mình ăn... Thế nên các cụ đã bảo trăm năm ngàn năm thằng còng làm thằng ngay ăn... Nhưng tôi vốn ngược đời, cái gì tôi làm ra tôi hưởng trước hết, và hưởng phần ngon nhất...
Gia đình cụ nhất nhất tuân thủ nguyên tắc ấy. Khi nào muốn thịt dê họ cắt tiết con dê ngon nhất đàn, muốn thịt lợn họ chọn con béo nhất chuồng. Trứng gà đẻ hàng ngày con cháu cụ nhặt quả tươi ăn trước, còn thừa mới đem bán. Cả vùng nhìn gia đình cụ với con mắt thần phục và ghen tị. Khi Bôn đến, cụ Phiều vừa tắm xong đang ngồi uống trà, ngang lưng quấn tấm khăn lông. Tắm nước nóng rồi uống trà nóng cho mồ hôi thoát ra, mồ hôi ra tới đâu dùng khăn bông thấm tới đấy, ấy là một trong những phép dưỡng sinh của ông lão độc đáo này:
- Vào đây, vào đây...
Vừa nhìn thấy Bôn ở đầu ngõ, cụ đã cất tiếng hồ hởi:
- Tuần trà này xanh lắm, không uống cũng thiệt.
Cụ nói và rót cho anh chén trà nóng. Bôn uống hết chén trà mới dám cất tiếng hỏi:
- Cháu nghe nói bác vẫn uống cà-phê thường ngày. Bác có thể cho cháu vài thìa được không?
Cụ Phiều nhìn anh:
- Anh định dùng bài cà-phê muối chứ gì?
Bôn im lặng. Chẳng gì giấu được lão phù thủy này.
Cụ Phiều nói:
- Tôi không lạ gì phương pháp ấy. Nó có thể đem lại kết quả tức khắc nhưng nguy hại cho anh lâu dài. Nó là con dao hai lưỡi, phải nghĩ kĩ đi...
- Cháu biết điều ấy... Nhưng cháu phải có con... Cháu cần có ngay một đứa con...
Bôn đáp và bỗng dưng giọng anh rung lên như sắp khóc. Cụ Phiều ngoảnh mặt ra vườn nhìn ngọn cây một lát, như chờ cơn xúc động của Bôn qua đi. Rồi cụ đứng dậy mở tủ, lấy trong đó chiếc bình thủy tinh đựng đầy hạt cà-phê rang và chiếc cối xay nhỏ. Ðem tất cả ra bàn, cụ thong thả lấy thìa xúc cà-phê bỏ vào cối xay. Mùi thơm bay lừng. Bột cà-phê rất mịn và màu nâu óng của nó tỏa vị mỡ gà. Bôn nói:
- Thơm thật.
- Ờ, tôi rang bằng mỡ gà trống thiến.
Cụ dốc cối cà-phê xay vào một tấm giấy dầu, gói lại đưa cho Bôn:
- Anh cầm lấy.
- Cháu cảm ơn bác.
Bôn nói và đứng lên, định ra về tức khắc. Nhưng cụ già lại bảo:
- Anh chưa về được. Chờ tôi lấy cho chiếc phin đã... Không lẽ về nhà anh bỏ vào nồi mà đun?...
Bôn sựng lại.
... Mình quê mùa hơn cả một lão nông...
Cụ Phiều đã quay ra, đưa cho anh chiếc phin pha và nói:
- Ðừng đổ quá nửa phin, nếu không nước không xuống nổi. Và anh cũng không được quên rằng nước pha cà-phê phải thật sôi.
Anh cảm ơn ông lão lần nữa rồi ra về.
Kỳ 120
Tiếp theo
... Ðây là vũ khí của ta, cứu cánh cuối cùng để dành lại hạnh phúc. Cuộc đời phía trước của ta trông chờ vào thứ bột kích thích này...
Anh nghĩ, và vừa đi vừa thò tay nắn gói cà-phê trong túi quần. Ðường làng vắng tanh. Giờ này chẳng ai đi chơi cả. Thế cũng may, nếu không sẽ có kẻ bắt gặp anh vừa đi vừa cười và người ta ngờ anh mất trí...
Tối hôm ấy sau bữa cơm chừng nửa giờ Bôn đun nước pha cà-phê. Mùi thơm tỏa lừng căn buồng. Miên đưa mắt nhìn anh ngạc nhiên nhưng không nói gì. Chị lấy mớ quần áo khô ngồi gấp.
- Miên có uống cà-phê không?
Bôn hỏi:
- Không.
Chị lắc đầu.
- Tôi tưởng Miên vẫn thường dùng cà-phê... ở đằng kia?
Anh hỏi tiếp, đưa mắt nhìn sâu vào mắt chị xem câu hỏi ấy gợi lên những kỷ niệm và ý nghĩ gì... Anh biết căn bếp sang trọng của Miên, chắc chắn ở đó phải có những lọ thủy tinh đựng thứ cà-phê hảo hạng như của nhà cụ Phiều. Nhưng Miên không đáp, chỉ lặng lẽ gấp quần áo, thứ lặng lẽ vẫn có từ ngày về sống với anh. Chỉ một lúc lâu sau, khi thấy anh vẫn kiên tâm chờ câu trả lời của mình, chị mới ném vài lời uể oải:
- Ở đằng kia em có uống... Nhưng không ai uống cà-phê vào buổi tối...
Nói rồi, chị mang mớ quần áo đã gấp bỏ vào hòm. Bôn nhìn theo Miên, con tim đập náo nức:
... Phải, chẳng ai uống cà-phê vào buổi tối như tôi. Tôi, kẻ khốn khổ rồ dại, kẻ yêu em với tình yêu của tên nô lệ của gã ăn mày... Nhưng đêm nay, em sẽ biết tôi là ai...
Sau lời tuyên bố thầm lặng ấy anh nghe tiếng cười đắc thắng vang lên. Tiếng cười của chính anh và của cái kẻ đứng ngoài anh cả hai cùng cất tiếng cười sằng sặc ngạo nghễ điên rồ cuồng loạn và cùng lúc cả hai tiếng cười cùng dội đập vào anh, vọng lên những hồi âm rùng rợn thâm u như tiếng cười của lũ ma dưới đáy vực. Miên chẳng hay biết gì những ý nghĩ của Bôn. Cất quần áo xong chị trở lại giường buông màn, nằm đúng vị trí thường ngày, tay vắt lên trán. Bôn liếc nhìn vợ, bắt đầu uống từng ngụm cà-phê, thứ cà-phê đặc sánh gần như ngả sang đen, thơm ngậy đắng và mặn. Anh uống nhưng không hề cảm nhận mùi vị đồ uống, chỉ đợi thứ nước nóng bỏng đang chảy vào dạ dày. Ở đó, nó sẽ truyền sang các mạch máu một chất kích thích, một ma lực khiến cơ thể anh cháy bùng như lửa, dữ tợn và hùng mạnh như cơ thể một đấu sĩ...
- Ta để đèn đêm nay chứ Miên...?
Chị không đáp. Có lẽ, chị nghĩ anh lẩn thẩn hoặc không có chuyện gì để nói nên lảm nhảm những câu vô nghĩa như vậy. Cánh tay chị vẫn gác trên trán, không động đậy. Bôn nhìn vợ. Khoảng da nơi cổ Miên lộ ra phơn phớt màu cam vì ngọn đèn đêm của họ được che bằng tấm giấy bóng kính màu cam. Bôn thích màu đó. Anh mê mải nghĩ:
... Ðêm nay ta sẽ hôn lên đó, ta sẽ hôn lên môi, ta sẽ...
Ý nghĩ đầy phấn khích, tươi sáng như ánh đèn. Ðã từ lâu anh không dám hôn vợ. Căn bệnh thối mồm không thuyên giảm bao nhiêu và nỗi sợ hãi khiến anh không dám vượt qua hàng rào cấm kỵ... Nhưng đêm nay, một đêm thần kỳ... Nó sẽ cho phép anh làm tất cả... Cà-phê muối đã ngấm. Bôn thấy toàn thân anh từ từ nóng lên, rồi nóng sực, có chút mồ hôi toát ra sau gáy. Ruột cồn cào. Từ thẳm sâu trong anh vừa bùng lên ngọn lửa. Thoạt tiên nó leo lét như lửa nhóm giữa những cành củi nhỏ, nhưng càng lúc nó càng bốc cao càng lan rộng tựa các đống lửa trại thời hoan niên anh từng đốt. Lửa bén bùng nhanh như phép lạ, những lưỡi lửa sinh nở như loài tảo biển, ngọn lửa mẹ đẻ ngọn lửa con, ngọn lửa vàng sinh ngọn lửa đỏ, ngọn lửa đỏ gọi những ngọn lửa trắng... thảy thảy chất chồng ngút ngát mênh mông như lửa cháy rừng. Lửa luồn lách trong các cơ bắp thổi luồng khí nồng nàn hừng hực dưới da, tỏa hơi nóng đến từng lỗ chân lông, từng gốc sợi tóc:
- Miên... Hãy quay lại với tôi...
Anh lẩm bẩm với nụ cười mơ hồ. Ánh sáng loang một vùng trên da thịt Miên. Da thịt Miên trắng nõn ánh hồng ánh cam. Anh nhìn rõ cặp vú chị với hai núm vú nhỏ và mịn đang vồng lên như những trái đồi... Những trái đồi của một mùa xuân đã qua. Mùa xuân ấy, lần đầu anh thọc tay xuống đũng quần ướt, tự biết mình đã trưởng thành, hoảng sợ ngất ngây khi con giống dựng ngược như cây cọc gỗ... Mùa xuân trẻ trung tươi rói. Những trái đồi xuân mơn mởn cỏ cây, mưa bụi giăng trắng xóa từ đồi nọ sang đồi kia từ thung này sang thung khác. Anh lăn lộn trên các dải đồi ướt sũng. Anh băng qua thung lũng, da thịt quệt vào cây lá ướt ròng sương đêm. Anh thơ dại trẻ trung tràn đầy sinh lực tựa hồ mọi bụi cây bờ cỏ kia không ướt sũng mưa bụi hoặc sương đêm mà ướt nhểu thứ nước của sinh lực từ con giống anh chảy xuống...
- Khéo anh làm tắt đèn...
Miên cất tiếng khi Bôn đi ngang qua nơi đặt hộp đèn đêm để leo lên giường. Bôn cười:
- Không tắt đâu... Ðêm nay đèn không tắt được...
Vừa nói anh vừa cúi xuống khêu to ngọn lửa lên. Căn buồng sáng hẳn ra. Miên quay nhìn anh với ánh mắt kinh ngạc nhưng chị chẳng nói gì thêm, chỉ lẳng lặng nhắm mắt và gác cánh tay lên trán. Ánh đèn rọi vào một bên má người đàn bà, đường lượn bên hàm và một phần cổ. Bôn chăm chú nhìn khoảng da thịt tươi mịn ấy rồi bất chợt nắm cánh tay Miên kéo xuống:
- Miên, tôi yêu em.
Chị chưa kịp phản ứng gì anh đã lặp lại lần thứ hai, thứ bà, thứ tư như bắn súng:
- Tôi yêu em, tôi yêu em, tôi yêu em....
Giọng anh mỗi lúc mỗi khàn đi, hung dữ khiến chị hoảng hốt:
- Ðừng... Ðừng anh...
Miên co cánh tay, định ngồi dậy nhưng bằng một cữ chỉ phũ phàng anh đã giằng cánh tay chị xuống siết chặt nó trong bàn tay nóng bỏng của anh và những ngón tay anh căng lên như những gọng kìm:
- Không gác mãi cánh tay lên trán nữa... Như thế đủ rồi...
Bôn nói tiếp, những ngón tay thép của anh siết chặt hơn nữa và thốt nhiên gương mặt anh tím bầm lại, anh quát:
- Như thế đủ rồi... Cô hiểu chưa...?
Cổ Miên tắc lại vì kinh hoàng. Nỗi kinh hoàng khiến chị đờ dại và vẻ đờ dại đó thú nhận chị sợ hãi, chỉ trong nháy mắt căn buồng gian hãm loài quỷ dữ đã bị rút chốt, cánh cửa bật tung và lũ quỷ điên rồ lao ra. Bôn đột ngột chồm lên vặn hai cánh tay chị khiến chị đau nhói. Khi thấy chị không còn chống cự được nữa anh cúi xuống lung hăng giật những chiếc nút áo trên ngực chị với vẻ tàn bạo chưa từng có. Hơi thở hôi và nóng rực của anh thổi lên mặt, lên cổ, lên tóc tai chị thứ lửa địa ngục và miệng anh không ngừng rít lên:
- Ðáng lẽ ta phải làm như thế này... Ta phải làm như thế này từ lâu... Ta đã quá nhẫn nhục, ta nhẫn nhục như con lừa... Ta đã phải sống kiếp lừa lâu quá...