Ðờn ca tài tử
Một Sử Ký
Đến Punakha Dzong, Bhutan
Tu viện Taktshang 'trú xứ' của Hổ, Bhutan
Làm trắng răng
Sunday, June 28, 2015
Sunday, February 8, 2015
Ðờn ca tài tử
Ðờn ca tài tử xuất phát từ trong nhân gian được đa số người miền Nam ưa thích, có thể nói rằng ở đâu có người miền Nam sinh sống, ở đó có đờn ca tài tử. Và trong số ấy lại có cả những người đam mê nó một cách cuồng nhiệt.
Theo như nhận định của một số người vốn hằng theo dõi, am tường về đờn ca tài tử, thì do bởi loại nhạc dân gian này được quá nhiều người mến mộ nên mới có hiện tượng... đờn ca ăn xin. Chớ nếu như hiếm người ưa thích thì chắc rằng đâu có cái “nghề” này.
Có lẽ xưa kia người mù làm ăn cái gì cũng khó khăn, cũng phải mò mẫm, mà cây đờn thì dễ mò nhứt, chỉ cần so dây nắn phím tìm những âm điệu vừa mới lạ, vừa ru hồn người nghe. Vì thế họ tập trung hết tâm lực để tạo ra âm thanh tiếng đờn cho thật truyền cảm, thật tuyệt diệu như nhạc sĩ mù Văn Vỹ chẳng hạn. Nhưng đa số người mù đâu có được cái may mắn như Văn Vỹ, được gánh hát, hãng dĩa trả lương để có một đời sống vững vàng. Mà số đông người mù này đã kiếm sống bằng cách đánh đờn cho người ta nghe để được cho tiền, và hình thức kiếm cơm này được thiên hạ, người đời gọi là đờn ca ăn xin.
Có khi người nghe cảm động quá nên bỏ đầy tiền chiếc nón rách, như câu chuyện: “Con của một chủ tiệm vàng mà cũng ngồi chung manh chiếu rách ca vọng cổ với người mù đờn ca ăn xin.”
Số là ở Cà Mau có tiệm vàng của ông Nguyễn Ðạo Ðức, thuộc thành phần giàu có nổi tiếng ở vùng tận cùng của đất nước này. Ông có người con trai tên Nguyễn Ngọc Cung, và bởi thời đó ở Cà Mau chưa có trường trung học nên gởi cậu ấm Cung lên Cần Thơ học nội trú tại trường Nam Hưng.
Ngày nọ vào năm 1940 ông chủ tiệm vàng đi Sài Gòn bổ hàng, tức mua nữ trang về Cà Mau bán. Thời bấy giờ xe đò từ Cà Mau đi Sài Gòn và ngược lại đều chạy ban đêm, chiều khởi hành, sáng tới nơi.
Xe đến bến bắc Cần Thơ thì đánh mõ để chiếc phà ở bên kia sông chạy qua đón (thời đó đâu có điện thoại như bây giờ).
Trong lúc chờ đợi phà, ông chủ tiệm vàng ngồi trên lan can dọc theo đường xuống phà. Bỗng nghe văng vẳng tiếng đờn lục huyền cầm của ai đó vọng lên, rồi kế tiếp lại nghe tiếng hát.
Ông bất ngờ nói thầm:
-Tiếng ai hát sao giống tiếng thằng Cung của mình quá!
Nghĩ vậy, ông thả bộ đi lần theo đường xuống phà, nơi có tiếng hát. Ðúng rồi! Thằng Cung đang ngồi vất vưởng trên lan can cầu bắc, và cạnh nó là thằng đánh đàn.
Ông giận dữ lên tiếng thật to:
-Ủa! Cung, sao ra đây?
Cậu ấm cười:
-Ở nội trú buồn quá, con nhảy rào ra đây hóng mát.
Sau chuyến đi trở về Cà Mau, ông Nguyễn Ðạo Ðức thuật lại với người thân trong gia đình chuyện cậu ấm Ngọc Cung ca hát ở bến bắc Cần Thơ. Ông nói:
-Thằng Cung như vậy đó! Mình dám tốn tiền để cho nó ăn học thành kỹ sư, bào chế sư, nhưng mình thấy rõ nó chỉ là một thằng “xướng ca vô loại”...
Mấy năm sau chiến tranh nổi lên, quân đội viễn chinh Pháp do Tướng Leclere chỉ huy, tiến như thác đổ xuống Mũi Cà Mau, chiến sự bao trùm vùng này, dân chúng chạy loạn tứ tán. Người dân Cà Mau một số chạy vô bưng biền, vô ruộng, số khác thì chạy ngược lên Sài Gòn, trong số có gia đình Ngọc Cung.
Vào khoảng 1947 dù đất nước đang tình trạng chiến tranh, nhưng ở Sài Gòn được kể như yên ổn hơn các nơi, nên phong trào đờn ca tài tử nở rộ, nhiều tụ điểm đờn ca mọc lên. Song song đó đài phát thanh Pháp Á mới thành lập cũng hàng ngày phát thanh loại đờn ca đang được ưa thích ấy, và thị dân Sài Gòn nhiễm nặng đờn ca tài tử ở thời kỳ này.
Một tối nọ, Ngọc Cung cùng với một người bạn đi dạo trên đường La Grandière (đường Gia Long sau này, và bây giờ đường đổi tên Lý Tự Trọng). Một đám đông tụ tập chừng mười người nghe cha con một nghệ sĩ mù đàn hát kiếm tiền độ nhựt. Trên một manh chiếu rách, người cha mù đờn cây độc huyền, loại đờn một dây giống như người đánh đàn trên bắc Mỹ Thuận. Ông ta vừa nói thơ vừa hát, còn đứa con gái độ 10 tuổi ngồi kế bên đẩy cái nón nỉ cũ mèm về phía trước để những người hảo tâm ném vào đó vài cắc bạc...
Cung kéo người bạn đi nhanh về phía đó, và đứng nghe người nghệ sĩ hát hết bài rồi vụt ngồi xuống kế bên ông ta, nói:
-Ông hát nhiều rồi, nghỉ một chút đi, để tôi hát tiếp cho. Ông đờn cho tôi hát nghe. Bắt đầu là một bài vọng cổ.
Người bạn của Ngọc Cung kêu lên “trời đất ơi”! Anh ta đâu có ngờ rằng chơi với Ngọc Cung gần mười năm mà cho tới giờ phút này mới khám phá những nét độc đáo có một không hai. Mê đàn mê hát là chuyện thường tình của dân miền Tây. Ðặc biệt là dân Cà Mau, Bạc Liêu, nơi xuất thân của những nghệ sĩ Sáu Lầu, Năm Nghĩa, Bảy Cao, Ba Khuê... nhưng tham gia thì cũng phải lựa chỗ lựa nơi, có ai lại nhào vô chiếu rách cha con nghệ sĩ mù trên vỉa hè mà biểu diễn tài nghệ!
Người bạn đang suy nghĩ miên man thì tiếng độc huyền đã trỗi lên và Ngọc Cung cất giọng vô vọng cổ...
Người bạn trông cho mau tới câu chót để kéo Ngọc Cung đi, nhưng vừa dứt câu 6 chưa kịp nghỉ thở Ngọc Cung đã bảo người nghệ sĩ mù:
-Mình làm tiếp một bản Xuân Tình.
Lúc này thì thiên hạ bao quanh nghe ca rất đông, và trong chiếc nón đã khá nhiều tiền. Cô bé đưa cái nón nỉ nhiều tiền thưởng cho người cha sờ, gương mặt ông ta lộ vẻ vui mừng, ông gật gù dạo vài câu trước khi vô bản Xuân Tình.
Thời này giới đờn ca tài tử thường hay hát bản Xuân Tình 4 lớp “Tống Tửu Ðơn Hùng Tín,” và bài “Chiến Tranh Thế Giới Thứ 2.” Không biết Ngọc Cung hát bài nào.
Ở Sài Gòn một thời gian thì Ngọc Cung ra bưng theo kháng chiến, và về sau Ngọc Cung trở thành soạn giả nổi tiếng với các kịch bản được dàn dựng khắp cả Nam Trung Bắc. Năm 1966, B52 giội bom vùng Suối Cây, Tây Ninh biên giới Campuchia. Soạn giả Ngọc Cung thiệt mạng trong trận mưa bom này.
Wednesday, January 7, 2015
Một Sử Ký
Jésus Nazareth sinh tại Bethlehem ở xứ Judea , nơi vua David ra đời hàng
ngàn năm trước đó. Thời đó có hai thành Bethlehem : một cách Jerusalem vài dặm,
thưa dân cư; là nơi sinh của vua David; và một ở Galilée cách Nazareth bốn dặm,
nơi có căn cứ trong Kinh Thánh. Tuổi của Jésus còn là đề tài gây tranh cãi.
Ngài sinh khoảng từ thế kỷ 6-BC đến 5-BC và chết vào ngày thứ 14 thời Nisan
trong lúc Pontius Pilate (người Roma) và Caiaphas (Jew) cai quản Judea (từ năm
26-37-AD).
Đại đế Julius Caesar 55 tuổi (được tung hô là Divus Julius = Julius Thượng
đế) bị các nghị sĩ ám sát chết tại Roma hôm 15/3 năm 44-BC. Hôm đó ông định bãi
bỏ cuộc họp nghị viện (có 900 nghị sĩ) vì tin theo ác mộng của Calpurnia, bà vợ
16 tuổi cưới hồi ông 40 tuổi. Decimus Brutus, một tướng lãnh thân cận từng đánh
bại hạm đội Venetian trong trận Gallic và có chân trong phe đảo chánh, khuyên
Caesar cứ họp đừng tin dị đoan.Cuộc họp này dự trù sẽ bầu Caesar làm đại đế trọn
đời không thể trì hoãn vì sau cuộc họp hôm 18/3, Caesar phải thân hành đi viễn
chinh nhiều tháng, có khi nhiều năm mới về. Trong số 60 nghĩ sĩ đối lập có
Decimus Junius Brutus Albinus cựu tướng, Lucius Tillius Cimber nghiền rượu.
Trong số các hung thủ có Casca Longus, Decimus Brutus và Marcus Brutus 41 tuổi
mà lời đồn cho là con rơi của Caesar. Caesar chết do nhát dao cuối cùng của
Marcus đâm vào háng đứt động mạch khiến Caesar qụy xuống từ tư thế đứng sau khi
kêu lên sửng sốt “mày nữa hả con?!”. Ông là người có tham vọng cai trị lâu dài
một đế quốc hàng ngàn năm nên đã lập lịch mới lấy tên mình và chia một tuần
thành 8 ngày thay vì 7 ngày như lịch Do-thái. Ngày thứ 8 gọi là G. Ngày thứ 7 họ
gọi là Saturn theo thứ tự các tinh tú của vũ trụ là mặt trời, trăng, hỏa tinh
(mars), Mercury, Jupiter, Venus và Saturn. Người Jews gọi thứ 7 là Sabbath.
Sau khi Caesar chết, Marcus thua trận Philippi phải tự tử. Octavian và Marc
Anthony tranh nhau ngôi báu. Marc Anthony bị Quintus Dellius làm phản nên thua
trận Actium (Hy-lạp) năm 31-BC; phải tự tử chết trong vòng tay của Cleopatra.
Cleopatra vì không muốn lọt vào tay Octavian nên cũng tự tử bằng độc dược ở tuổi
39. Sau đó, Octavian lên ngôi lấy vương hiệu là Caesar Augustus. Vào thời kỳ
này, Jerusalem do giới tăng lữ cầm quyền nhưng không có quyền kết án tử hình.
Có nhiều cuộc nổi loạn chống triều đình Roma; lớn nhất là vụ hồi thế kỷ 4-BC
khi đó Jesus mới một tuổi.
Vua Herod 69 tuổi lai nửa Do-thái, nửa Ả-rập và bệnh hoạn; được người Roma
đưa lên cầm quyền. Ông giết thai nhi và hài nhi bằng loại gươm giáo thịnh hành
thời ấy (Tk 5-BC) gọi là “pugio” và “gladius”. Ông có 10 vợ; từng giết
Mariamme, mẹ bà và hai con trai của ông là Alexandre và Aristobulis. Đại đế
Caesar Augustus đã chả ví von thói hiếu sát của ông “thà là con heo của Herod
còn hơn là con trai ông ta”! Thời ấy tuổi thọ trung bình của con người chỉ độ
40.
Herod nghe các du khách thượng lưu, tức “Magi” nói về Jesus trên đường đến
Bethlehem để thờ phụng Ngài. Họ là các học sĩ nghiên cứu sách Tanakh (Cựu Ước),
Torah (5 quyển đầu của Tanakh) và Talmud (viết 600 năm sau). Trong số khách viếng
có Anna, nữ tiên tri duy nhất được đề cập trong sách của Luke, người tiên đoán
Jésus sẽ giải phóng Jerusalem từ tay đế quốc Roma.
Khi Jésus lên 12 tuổi, ngài bị lạc
trong đám hành hương hôm 22/2 năm 7-AD lúc giữa trưa. Cha mẹ ngài trên đường về
Galilée phát giác kịp bèn quay lại Jerusalem để tìm. Jerusalem và vùng phụ cận
thời đó được gọi là Judea , một phần của tỉnh Syria . Họ tìm được con trưa 23/3
trong đền Hewn Stone (xây trong 46 năm) thấy Jésus đang nói chuyện với các học
sĩ. Khi bị mẹ trách móc, ngài đã đáp, giọng Galilée: “Mẹ không biết rằng con
đang ở trong nhà Cha con sao?”. Trong câu nói này, Jésus đã “lộng ngôn” ám chỉ
mình là con Thiên Chúa; theo luật Do-thái đáng lẽ phải lãnh án tử nhưng được miễn
vì tuổi vị thành niên. Sau đó cả nhà trở về Nazareth . Theo Kinh Thánh, Jésus
có 4 anh em ruột: James, Joseph, Judas và Simon và có cả chị em gái nữa nhưng
không được nêu con số và tên gọi. GHCG cho rằng họ là anh chị em họ. Chính Thống
giáo cho rằng họ là anh chị em cùng cha khác mẹ vì Joseph góa vợ trước khi
chung sống với Mary. Các giáo phái Tin Lành khác thì cho họ là các anh chị em
ruột của Jésus. Jésus thường phụ cha làm mộc 6 ngày một tuần. Cha Joseph mất
năm Jésus 13 tuổi thời Herod Antipas làm vua Israel . Danh xưng “Israel ” (nghĩa
là “đất hứa”) là tên nguyên thủy thời ấy; được dùng lại kể từ 14/5/1948 khi LHQ
cho tái lập quốc gia này.
Caesar Augustus phong cho Pontius
Pilate, một cựu sĩ quan miền Trung Ý cai quản Judea . Pilate cùng vợ Claudia sống
trong dinh với 3,000 quân sĩ. Pilate phải dùng Caiaphas người Do-thái (Jew) đã
từng làm trưởng giáo hàng chục năm để cai quản việc thường vụ và đặc trách tôn
giáo vụ. Caiaphas theo dõi John Baptist giảng đạo để tìm bắt ông. Jésus xuất hiện
trên sông Jordan ; đang cùng John giảng đạo thì có con bồ câu bay đến đậu trên
vai (4 Thánh Thư đều nhắc đến con chim này: Matthew, Mark, Luke và John. Họ viết
70 năm sau khi Jésus qua đời; ở các độ tuổi theo thứ tự 70, 50, 59-63 và 50-85.
John ghi nhận con chim đậu trước khi Jésus làm phép Rửa thay vì sau khi đó như
ba người kia). Khi hay tin Herod Antipas bỏ vợ (con gái vua Aratas IV của xứ
Nabatea) để lấy bà Herodias, vợ của anh em mình, John đã cực lực lên án và bị
Herod bắt. Trong tù, John cũng được nghe biết về các hoạt động của Jésus như
giúp người mù sáng mắt, người điếc được nghe, người chết sống lại . . .Qua năm
sau trong một dạ tiệc, sau màn vũ của con gái bà vợ Herodias, Antipas lỡ hứa
thưởng nó nên mẹ nó bảo nó xin Herod Antipas cái đầu của John đặt trong khay bạc.
Theo sử gia Josephus, Antipas sau này mất vương quốc vì đã giết người vô tội
này.
Sau khi Augustus và 2 con trai (con
nuôi ? Germanicus 33 tuổi và con trai Drusus 34 tuổi bị vợ và người tình
Sejanus Livilla đầu độc) qua đời, Tiberius Julius Caesar lên ngôi. Trong thời kỳ
này, Jésus vào đền thánh trong một dịp lễ Passover (Vượt Qua); dùng roi bện dây
thừng đánh đuổi bọn đổi tiền và con buôn đủ loại. Khi bị chất vấn về thẩm quyền,
Jésus thách “hãy phá hủy đền thờ này rồi ta sẽ xây lại trong ba ngày”. Sự kiện
này xảy ra lúc khởi đầu việc giảng đạo (John 2:14 -22); nhưng theo Matthew (
21:12 -17), Mark ( 11:15 ) và Luke ( 19:45 ) thì lại xảy ra lúc cuối. Trong một
đêm ở Jerusalem , Nicodemus (người Phasisee giàu có, thành viên hội đồng
Sanhedrin) chận hỏi Jésus về Nước Trời, ngài đáp: “Thiên Chúa yêu thương trần
gian nên sai con một xuống thế không để trừng phạt mà để cứu rỗi. Ai tin sẽ được
sống đời đời”. Theo sử gia Josephus, có lẽ đây là Nicodemus ben Gurion của Tk
1-AD; còn theo sách Talmud, đó là Nakdinon ben Gurion phiên âm Hy ngữ mà ra.
Nổi tiếng sau khi chữa lành một trẻ
bệnh sắp chết ở làng chài Capernaum, nay Jésus không ở Nazareth, cũng không làm
thợ mộc nữa mà chỉ đi giảng đạo. Jésus tự nhận mình là Con Thiên Chúa cả ba lần
nơi công chúng: một lần ở Jerusalem , một lần nói với Nicodemus và lần kia ở đền
thờ Nazareth . Vào một buổi chiều mùa hè năm 27-AD ở Capernaum , Galilée; thấy
Simon và anh em ông là Andrew không bắt được con cá nào suốt đêm qua đành vào bờ
lo không có tiền đóng thuế, Jésus đến tìm họ và mời cùng ngài đi giảng đạo;
không phải để bắt lưới cá mà để bắt lưới “người”. Hai anh em vâng lời lại đem
thuyền ra khơi và bắt được nhiều cá đến nỗi rách cả lưới. Thấy vậy Simon quỳ lạy
Jésus và theo ngài từ đó. Theo luật, lươn và catfish là 2 loại cá không sạch
nên không bị thuế; các loại cá khác bị đánh thuế trước khi chở đi muối và phơi
khô ở Magdala rồi đóng thúng xuất cảng khắp đế quốc Roma. Jésus đặt lại tên cho
Simon là Peter (nghĩa là “đá”), môn đệ đầu tiên. Đến năm 28-AD, Jésus chiêu mộ
được 12 người, trong đó có 4 dân chài là Peter, Andrew, James và John là những
người hiểu tiếng Aramaic, Hy, Hebrew và chút ít Latin. Tất cả đến từ Galilée
ngoại trừ Judas đến từ Carioth (Iscariot theo Hy ngữ) phụ trách thủ quỹ của
nhóm. Lợi tức đến từ các mạnh thường quân hâm mộ và trả ơn; tuy chẳng bao nhiêu
cũng đã bị Judas lấy dùng riêng nhiều lần (Luke 8:2-3). Jésus xem Judas là bạn
và cả nhóm là môn đệ (“apostle” từ Hy ngữ “apostello” mà ra nghĩa là “gởi đến”)
hoặc “disciple” (người theo phụ). Sau khi Jésus tử nạn, những người còn sống
sót chỉ được gọi là “apostle” khi đi giảng đạo bên ngoài Judea .
Pilate và Herod Antipas theo dõi sát
Jésus, tìm cớ để bắt ngài. Trong lúc đám đông có cả người Pharisees, Jésus giảng
“tám mối phúc thật” (được truyền tụng là “bài giảng trên núi”) và dạy họ đọc
kinh “Lạy Cha”. Khi trở về Capernaum , một sĩ quan Roma ở đây đã xin theo ngài.
Ba tháng sau, một người Parisee tên Simon mời ngài đến nhà ông ta ở Magdala
cách đó 4 dặm với mục đích gài bẫy cho ngài nói phạm luật. Tại đây, một gái điếm
tên Mary Magdalena đến dùng dầu thơm và tóc để lau chân ngài và nhỏ những giọt
nước mắt sám hối. Jésus trách chủ nhà đã không cho khách nước để uống và rửa
chân; và nói với ông ta rằng “mọi tội của bà này đã được sạch” rồi quay sang bà
mà nói “đức tin đã cứu ngươi; hãy ra về!”. Bà không được nhận làm môn đệ nhưng
đã theo ngài đến cùng. Sự kiện này cho thấy Jésus có thẩm quyền tha tội. Được
biết vào thời Chúa Jésus, nữ giới được tôn trọng và bình đẳng với nam giới; được
chọn người phối ngẫu, ký giao kèo và bán tài sản. Do đó có nhiều tấm gương phụ
nữ sáng chói: gái điếm Rehab giúp quân Israel đánh thắng trận Jericho , em gái
Mariam giúp hai anh Moses và Aaron di dân Jews từ Ai-cập; và nhiều nữ anh hùng
khác như Rachel, Sarah, Leah, Rebecca . . .
Phép lạ hóa nước thành rượu, người què được đi khiến dân chúng tìm kiếm
Jésus khắp nơi. Người Pharisee xem việc chữa bệnh ngày Sabbath là phạm luật
(Do-thái). Đã thế lại thêm tin Jésus hóa 5 bánh và 2 cá thành thức ăn đủ cho
5,000 dân hành hương tại vùng núi gần Bethsaida; dựng dậy một cô gái đã chết ở
Capernaum; và các môn đệ kể rằng thấy Jésus đi bộ trên mặt nước biển Galilee giữa
cơn bão sóng. Trong một dịp du hành hai ngày rời Galilée cùng các môn đệ đi
Caesarea Philippi, Jésus cho họ biết Con Thiên Chúa sẽ bị giết và sẽ sống lại
ba ngày sau. Trong khi các môn đệ đi Jerusalem dự lễ Tabernacles (Bánh Thánh),
Jésus ở lại Galilée rao giảng “Ta là ánh sáng” rồi đi ngay Bethany để cứu sống
một kẻ đã chết bốn ngày tên Lazarus.
Khi vị vua cuối của Israel là Zedekiad không nộp triều cống cho
Nabuchadnaggar II, ông ta bị truất phế, móc mắt và đầy đi Babylon cùng toàn dân
Jews làm nô lệ. Lợi dụng lỗ hổng quyền lực, các tăng lữ Pharisee từng được tôn
kính suốt 6 thế kỷ mà đại diện là Caiaphas; nay vẽ thêm hàng trăm điều răn cấm
vào 10 điều của Moses để nới rộng quyền hành. Họ lo sợ nếu để Jésus –năm nay 36
tuổi- lãnh đạo dân Do-thái và nổi loạn, quân Roma sẽ đến chiếm đóng Judea và lại
đầy ải dân Israel như họ đã làm.
Pilate đến Jerusalem hôm chủ nhật
2/4 năm 30-AD để dự lễ Passover (Vượt Qua). Cũng ngày này, Jésus cùng các môn đệ
trên đường đến đây dự lễ đã ghé tạm trú tại nhà của Lazarus và hai bà chị em
ông là Mary và Martha. Sáng hôm sau thứ hai 3/4, họ tới đền thánh, nơi mà ba
năm trước Jésus đã dùng roi đánh đuổi con buôn; nay Jésus lại giận dữ lật bàn đổi
tiền và các sạp bán buôn, thả chim bồ câu ra khỏi chuồng; rồi phán “Nhà Ta là
nơi cầu nguyện vậy mà các ngươi biến nó thành ổ trộm cướp”! Giữa lúc đó, nhiều
người đa số là trẻ em thán phục và kêu lên “Hosana con vua David”! Sau đó,
Jésus và các môn đệ trở về Bethany bình yên. Hôm sau từ nhà Lazarus, họ mới đến
Jerusalem dự lễ. Tại đây khi bị trưởng giáo chận hỏi về Nước Trời, Jésus bảo đó
là “nơi nhiều người được mời nhưng chỉ ít người được chọn”. Cũng tại đây hôm đó
lần chót giảng đạo, khi bị gài bẫy bằng câu hỏi có nên đóng thuế cho Caesar
không, Jésus kêu một người đưa cho ngài đồng tiền có chân dung Caesar mà bảo
“hãy trả lại Caesar những gì của Caesar, trả Thiên Chúa những gì của Thiên
Chúa”! Khi bị chất vấn về điều 1 của 613 điều răn Pharisee, Jésus lập lại “thứ
nhất kính mến Thiên Chúa hết lòng hết tâm trí” rồi thêm “và yêu người như chính
mình vậy”.
Sau đó, Jésus lên núi Olives và cho các môn đệ biết mình sẽ bị nộp và bị
đóng đinh; trong khi Caiaphas lập kế bắt Jésus vào thứ tư hoặc thứ năm để kịp bố
trí phiên tòa ban ngày sau lễ Passover (và nếu có án tử thì kịp thi hành sau một
đêm theo luật). Vì nhiều người để râu như Jésus, họ nhờ Judas chỉ điểm để khỏi
bắt lầm. Hôm 4/4, trong khi Jésus và 11 môn đệ còn trong nhà Lazarus, Judas lẩn
đi Jerusalem ; đến thẳng dinh Caiaphas ra giá “ông cho tôi cái gì để đánh đổi?”
Caiaphas trả lời “30 đồng (bằng) bạc (# 120 Derarii = 4 tháng lương). Sau khi
nhận tiền, Judas về Bethany ; vừa đi vừa nghĩ cách viện lý do vắng mặt và tìm
nơi giấu tiền. Judas không báo cho Caiaphas nơi trú ngụ nhà Lazarus; sợ dân
hành hương can thiệp cứu Jésus.
Đến ngày lễ Passover, gia đình
Caiaphas có sẵn đàn chiên nuôi trong đền để ăn thịt khỏi mua; còn gia đình
Pilate chỉ xem bữa ăn lễ của bản xứ là một trong 3 bữa ăn thường nhật:ientaculum
(điểm tâm), prandium (bữa trưa) và cana (bữa chiều). Jésus mừng lễ sớm hơn một
ngày. Matthew, Mark và Luke có thống nhất đề cập về chi tiết này nhưng về món
ăn vẫn còn gây tranh cãi; không rõ thịt chiên hay thịt trừu. Khi còn tại chức,
ĐGH Benedict XVI đã giải quyết tranh cãi này như sau: Jésus dùng dương lịch
(Dead Sea Scrolls) nênkhông ăn thịt chiên. Các học giả khác đoan quyết rằng
khoa Syncoptics đặt lịch theo phương pháp Galilée (mà Jésus, môn đệ và dân
Pharisee dùng); tính một ngày từ bình minh này đến bình minh kia. Trong khi đó,
John (môn đệ trẻ nhất) dùng lịch theo phương pháp địa phương Judea mà dân
Sadducees dùng; tính một ngày từ mặt trời lặn này đến mặt trời lặn kia.
Tại phòng ăn do mạnh thường quân
thuê, Jésus dùng nước lau chân cho các môn đệ, một cử chỉ khiêm cung chỉ để các
nô bộc hay nô lệ làm. Jésus biết rõ tánh ý từng người: Simon cuồng tín, mê
chính trị. Peter bốc đồng. James và John ồn ào (Mark 3:16 -17). Thomas gay cấn,
căng thẳng, đa nghi và thường âu sầu ủ rũ. Andrew niềm nở. Philip hậm hực ..vv…
Trong bữa ăn cuối cùng này, Jésus tiết lộ “một trong các ngươi sẽ phản ta”. Thế
là ai cũng nhao nhao lên “không phải tôi!”. Jésus nói thêm “một trong 12 các
ngươi giá đừng sinh ra đời thì tốt hơn!”. Peter run rẩy nhắc John (ngồi cạnh
Jésus) hỏi xem là ai. Chỉ đến khi Judas hỏi “phải tôi không?”, Jésus mới thầm
thì nói nhỏ “phải, chính ngươi; định làm gì thì cứ làm mau đi!”. Vì ngồi xa và
vì ồn ào nên những người kia không nghe; tưởng Judas đứng dậy đi lấy thêm thức
ăn khi chộp lấy túi tiền và rời khỏi phòng ăn; đi báo cho Caiaphas!
Hàng ngàn quân lính Roma từ Caesarea đến tăng cường an ninh cho lễ Passover
ở Jerusalem; trong đó có 12 người của đội hành quyết chia làm ba nhóm, mỗi nhóm
4 người gọi là “quaternion”; người thứ 4 gọi là “exactor mortis” chỉ huy nhóm.
Nhóm này có nhiệm vụ ngày mai vì có 3 tử tù thụ án; trong đó có Barabas, kẻ cướp
giết người khét tiếng. Hai người kia là đồng bọn. Nơi thụ án đóng đinh là đồi
Calvaria- tiếng Aramaic gọi là Gulgalta(phiên âm Hy ngữ là Golgotha ); tất cả đều
nghĩa là “sọ người”! Tử tù sẽ bị đóng đinh vào thập tự giá bằng gỗ gọi là
“patibulum”.
Lần chót cùng các môn đệ lên đồi Olives, Jésus cầu nguyện “xin cất chén đắng
này; nhưng theo ý Cha”. Khi trở về vườn Gethsemane, Jésus thấy các môn đệ còn
ngủ thì trách “sao các người không canh thức được lấy một giờ sao!” rồi đánh thức
họ dậy trong lúc nhiều ánh đuốc đang tiến về từ phía thung lũng Kidron; dẫn đầu
bởi Judas. Judas ra tín hiệu bằng cách ôm hôn Jésus vào má và lạnh lùng nói
“chào Thầy!”. Jésus đáp “bạn hãy làm những gì bạn muốn”. Jésus hỏi đám lính
“các ông tìm ai?”. Họ đáp “Jésus Nazareth”. Jésus đáp “chính là Ta đây!”. John
chứng kiến thấy Peter rút gươm chém đứt tai của Malchus, đầy tớ của Caiaphas.
Thấy thế, Jésus bảo Peter “hãy cất gươm vì ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Jésus
bị bắt; đi cùng Judas và binh lính về dinh cựu trưởng giáo Annas giữa giao thừa
lễ Passover; bỏ lại các môn đệ sợ hãi và lẩn tránh. Tại dinh Annas hôm thứ sáu
7/4 năm 30-AD, Jésus bị tra tấn đau nhưng vẫn khẳng khái hỏi Annas “nếu tôi nói
sai, hãy cho biết sai điều gì; mà nếu tôi nói sự thật thì sao lại đánh tôi?”,
“tôi nói công khai không bí mật sao lại hỏi tôi. Hãy hỏi những người đã nghe
tôi nói”. Cuộc khảo cung này bất hợp pháp vì diễn ra ban đêm, tại nhà riêng và
không luật sư bênh vực. Việc điệu Jésus đến hội đồng Sanhedrin xét xử cũng bất
hợp pháp.
Annas là cha vợ của Caiaphas, dòng dõi Zadobite tăng lữ lâu đời từ thời vua
David. Quân Pompey khi chiếm Jerusalem đã tàn sát các dòng họ tăng lữ khác trừ
Zadobite. Herod đã tái cử dòng họ này làm trưởng giáo từ đó. Con của Annas sau
bị dân Jews nghèo khổ nổi loạn giết chết giữa thành Jerusalem .
Khi hay tin Jésus bị bắt, nhiều người
đến tụ tập trước cổng dinh. Hai môn đệ Peter và John can đảm đến đó nghe ngóng
(John 18:15 ). Jésus không trả lời các câu tra vấn của Caiaphas như “ông có phải
là Đấng Cứu Thế không? Có nói sẽ phá đền thờ và xây lại trong 3 ngày không?”.
Cuối cùng, Jésus xác nhận mình là Con Thiên Chúa “như lời đã hỏi” và nhìn thẳng
vào mắt Caiaphas mà bảo “ông sẽ thấy Con Người ngự bên phải Đấng Toàn Năng trên
chốn Thiên đình”.
Jésus bị tuyên án tử về tội “lộng ngôn” xúc phạm. Tại tòa, chỉ có hai người
dám bênh vực ngài là Nicodemus và Joseph ở Arimethea người Sadducee giàu có.
Khoảng 7 giờ sáng, Jésus bị điệu ngang doanh trại lính gọi là “stratopedon”; cũng
là lúc Caiaphas đến gặp Thống đốc Pilate, người có quyền ra án tử. Pilate từ chối
giam giữ Jésus và truyền giao ngài cho Herod Antipas, người cai quản vùng lãnh
thổ bao gồm Galilée. Antipas biết ý, gởi trả Jésus lại cho Pilate như một cử chỉ
đề cao quyền lực của nhau vì họ từng là đối thủ chính trị đã lâu. Pilate bất đắc
dĩ phải nhận xử vụ này và hỏi Jésus “phải ông là vua Do-thái?”. Jésus hỏi lại
“đó là ý riêng của ông hay ai đã nói với ông như thế?”. Pilate hỏi “thế ông đã
làm gì?”. Jésus trả lời “Vương quốc của tôi không thuộc cõi thế này; bằng không
hầu cận tôi đã không để tôi bị bắt đem nộp ông. Vương quốc của tôi ở một cõi
khác”. Pilate: -Thế ra ông từng là vua?”. Jésus: -Ông nói đúng. Tôi là vua vì
đó là lý do tôi được sinh ra và vì vậy tôi xuống thế để khai sự thật. Mọi người
bên phía sự thật đều nghe tôi”. Pilate: -sự thật gì?”. Jésus không trả lời.
Pilate biết rằng nổi loạn chống Roma
mới là tội hình sự; còn giảng đạo thì không; nên lợi dụng dịp lễ để mị dân; đưa
quyết định ân xá cho đám người bên ngoài pháp đình (mà ông tưởng là dân hành
hương) quyết định. Ông hỏi họ: -Các người muốn ta thả vua dân Do-thái không?
Đám tay chân của Caiaphas đồng thanh hô to: -Thả Barabas! Pilate biết Jésus vô
tội nên xử theo “verberatio” (đánh) và tuyên bố “các ông giao cho tôi người đàn
ông bị cáo buộc tội xúi giục nổi loạn. Cả Herod cũng trả người này cho ta là vậy.
Như các ông thấy, người này không đáng tội chết; vì vậy ta chỉ phạt đánh rồi thả”.
Sau đó, Jesus bị lột quần áo và lôi vào sân “praetorium”(sân dinh Tổng trấn).
Khoảng từ 8 giờ sáng đến 3 giờ chiều ngày 7/4 năm 30-AD ở thượng nguồn
Jerusalem, Jésus bị trói vào cột; bị đánh bằng roi có gắn “plumbatae” (thỏi
chì) thay vì gắn thỏi kim loại hay xương trừu; và cũng không đánh 39 roi theo
luật “40 trừ 1” của Moses.
Sau hình phạt, Jésus bị dẫn về nhà tù và bị bọn lính tinh nghịch gắn “triều
thiên” kết bằng gai và “trượng vua” bằng cành cây để làm trò chế giễu và phỉ nhổ.
Pilate truyền dẫn Jésus lại tòa hồi 9 giờ sáng và nói với các tăng lữ: -“đây là
vua các người!”; thế rồi họ đồng thanh hô “đem đi đóng đinh!”. Pilate: -“liệu
ta đóng đinh vua các ngươi?”. Người dẫn đầu đám người ấy trả lời một cách nịnh
bợ: -“không ai là vua ngoại trừ Caesar!”. Pilate cố hỏi họ để gỡ tội cho Jésus:
-“ông ta phạm tội gì?”. Họ không trả lời mà chỉ hô to: -đóng định y!Pilate sai
đem chậu nước đến; rửa tay và bảo “ta không dính máu người này; trách nhiệm ở
nơi các người!”. Tuy thế, Pilate là người chịu trách nhiệm vì theo luật Roma,
ông ta có quyền “ius gladii” (quyền cây gươm).
Thập tự giá bằng gỗ gọi là
“patibulum” nặng chừng 50-70 pounds, dài không đầy 6 feet được xốc lên vai tội
nhân để đem lên đồi Golgotha cách đó ½ dặm. Pilate đích thân viết bằng than vào
bảng ghi tội danh đóng vào thánh giá “Jesus Nazareth: Vua Do-thái”. Caiaphas
đòi đổi bảng khác nhưng Pilate không cho. Viên “exactor mortis” (đội trưởng) e
tử tội chết trước khi đến pháp trường nên nhờ một tín đồ hành hương người Jews
gốc Phi châu tên Simon ở Cyrene , Libya vác thay. Mark viết rằng người này là
“cha của Alexandre và Rufus”- các tên gọi phổ thông thời tiền sử TCG -mà Paul
đã gặp gỡ (Romans 16:13 ). Đến nơi, Jésus bị đè xuống và đóng đinh vào thánh
giá khiến ngài rên la vì đau đớn. Bọn lính không định đóng một kệ đỡ dưới mông
(để chịu sức nặng của tội nhân khi dựng thánh giá lên cao); cũng không đóng miếng
đỡ dưới bàn chân tội nhân vì dự định cho tội nhân chết mau hơn trong ngày
Sabbath thay vì để tội nhân chết lần mòn qua ngày khác như các trường hợp trước
đó. Tại pháp trường có Mary, mẹ ngài và bà Mary Magdelene. Trong khi chờ tội
nhân chết, bọn lính uống rượu chua. Khi nghe Jésus rên “tôi khát nước” thì một
lính lấy giẻ thấm rượu đưa lên cho ngài nhấm. Nhấm xong, Jésus nói “mọi sự đã
xong” rồi bất tỉnh và tắt thở ở tuổi 36. Viên “exactor mortis” dùng giáo đâm
vào xác ngài ngay tim để máu trào ra; một lối chứng tử thời đó. Kinh Thánh
không đề cập đến tên người đội trưởng này nhưng có sử liệu ghi là Longinus, người
đã hối cải và nhập đạo.
Chiếc giáo gọi là “holy lance” rất linh thiêng. Nghe nói Adolf Hitler đã cầm
nó. Sau thế chiến II, Tướng Mỹ George Patton đã lấy chiếc giáo này trả nó về
cho dinh Hofburg ở Vienna , Áo quốc. Hiện nó là bảo vật của viện bảo tàng hoàng
gia Áo. Các xứ Armenia , Antioch và Poland cũng tuyên bố có chiếc giáo này (?).
Và vì là dịp Sabbath, thay vì để xác tử tội chết rữa hay cho cầm thú rỉa thịt
như mọi khi, lính Roma nhổ đinh khiêng xác ngài xuống; định đem chôn trong nghĩa
địa dành cho phạm nhân hình sự; nhưng họ đã cho Joseph ở Arimathea và Nicodemus
người Pharisee nhận xác đem chôn trong nghĩa địa tư của gia đình Joseph. Theo
luật Do-thái, xác được xem xét 3 ngày sau khi chôn và cửa mồ được mở vào chủ nhật.
Caiaphas nhắc Pilate cho lính gác cửa mồ vì Jésus đã bảo sẽ sống lại sau 3
ngày; và cũng để canh chừng đám đệ tử ngài có thể đến trộm xác để chứng minh điều
ấy. Ba ngày sau, tối hôm chủ nhật 9/4 năm 30-AD, bà Magdalene và một bà tên
Mary (khác với Mary, mẹ ngài- một tên thông dụng thời ấy) đến viếng mộ và viếng
cả cây thánh giá. Bà định tìm người nhờ lăn phiến đá cửa mộ nhưng lạ thay; đã
thấy nó nằm hẳn sang một bên tự bao giờ! Xác Jésus cũng biến mất; chỉ còn vải
liệm. Kinh Thánh viết rằng Jésus đã xuất hiện 12 lần trong 40 ngày sau khi sống
lại; trước một người hoặc trước đám đông có lần lên đến 500 người tại một ngọn
núi ở Galilée. Một phần tư thế kỷ sau đó, Paul có nhắc sự kiện này trong thư viết
gởi Corinthans.
Sáu thế kỷ sau, hình tượng “thánh giá” mới trở thành biểu tượng của đức tin
Thiên Chúa Giáo. Sau một thời gian trốn tránh, các môn đệ đã ra mặt đi truyền đạo
khắp nơi. Năm 44-AD, cháu vua Herod là Herod Arrippa cai trị Judea lúc đó ra lệnh
chém đầu James, vị thánh tử đạo đầu tiên. Herod cũng bắt giam Peter rồi thả
không rõ nguyên do. Peter sau đi Rome truyền đạo rồi bị đóng đinh ngược đầu xuống
đất khoảng năm 64-67-AD; chôn ở nơi nay là Vatican . Andrew truyền đạo ở Nga ,
Ukraine và Hy-lạp; bị đóng đinh ở Petra , Hy-lạp. Thomas bị đâm chết gần Madras
, Ấn-độ. Bartholomeo truyền đạo ở Ai-cập, Arabia và Iran ; bị chết chém ở Ấn-độ.
Simon bị cưa đứt người làm hai ở Persia . Philip truyền đạo ở Turkey ; bị giết
rồi treo ngược ở Hierapolis . Matthew có lẽ bị giết ở Ethiopia . Các môn đệ
khác có lẽ cũng cùng chung số phận ở các nơi khác. John bị người Roma bắt đày
ra đảo Patmos ở Hy-lạp. Tại đó, ông viết Kinh Thánh đoạn chót của Tân Ước rồi mất
vào năm 100-AD ở Ephasus , Turkey ở tuổi 94; môn đệ duy nhất không tử đạo.
Theo Matthew, Judas Iscariot tự tử
chết (treo cổ trên cành cây) nhưng cũng có sử liệu ghi ông ta dùng cương ngựa tự
bẻ cổ chết. Mary Magdelene có lẽ ở trong số đàn bà mà (đoạn Acts 1:14 ) đề cập;
được ơn Chúa Thánh Linh tại Pentecost. Mary, mẹ của ngài không được đề cập về
chung sự cho đến ngày 1/11/1950 hồi thế kỷ XX, khi GHCG tuyên cáo “Mẹ hồn xác
lên trời”. ĐGH Pius XII ra sắc chỉ viết “Đức Mary đã hoàn tất sứ mệnh đầu đời;
đã cả hồn lẫn xác lên trời vẻ vang”.
Về phần nhà cầm quyền thời đó, 6 năm sau vụ án, Pilate lại phải xử một vụ
án tương tự mà bị cáo phạm tội truyền đạo
là người Samarit ở vùng núi Gerizim. Pilate hồi đó cho lính đàn áp gây nhiều chết
chóc nên bị triệu hồi về Roma. Sau khi vua Tiberius 77 tuổi chết, Pilate bị buộc
tự sát. Có sử liệu ghi ông nhảy sông Rhone gần Vienne tự tử. Nay vẫn còn đài kỷ
niệm có tên gọi là “Mộ Pilate”. Sử liệu khác ghi ông chết trong hồ nước gần
Lausanna ở Thụy-sĩ; nay có tên “Mount Pilatus ”. Có tin đồn ông và vợ Claudia
sau nhập đạo rồi bị giết (?). Có thể vì thế mà hai GHCG Coptic và Ethiopia đã
phong thánh tử đạo cho ông! Caligula 24 tuổi lên ngôi; làm vua 4 năm rồi bị ám
sát chết. Claudius và Nero lần lượt nối ngôi sau đó. Bốn trăm năm sau, năm
476-AD, đế quốc Roma bị đánh bại bởi người Germanic nhưng dân Rome lại bỏ tà thần
mà theo đạo Chúa. GHCG được Edict de Milan công nhận ở đây năm 313-AD. Theo thống
kê 2013 của Gallup Poll, hiện nay có 2.2 tỷ người trên thế giới (77% tại Hoa Kỳ)
là tín đồ theo chủ thuyết của giáo chủ Jésus: “Tình yêu thương, niềm hy vọng và
sự thật”.
Caiaphas lắm kẻ thù nên bị mất chức. Không rõ cái chết của ông ta nhưng hồi
1990 có người tìm thấy chum chứa cốt ông ta ở Jerusalem . Chum cốt này hiện được
trưng bày ở viện bảo tàng Israel . Herod Antipas bị Caligula đày đi Gaul ; sau
đoàn tụ với vợ Herodius ở Lugdunum; nay là Lyon , Pháp quốc. Dân Jews sau lại nổi
lên chống Roma hồi năm 66-AD. Năm 70-AD, bốn đạo quân Roma đóng ở núi Olives đã
chận không cho khoảng từ 600,000-1,000,000 tín đồ hành hương rời Jerusalem ; giết
vô số rồi bắt làm nô lệ số người sống sót. Đền thánh bị tiêu hủy vĩnh viễn cho
đến nay. Vụ nổi dậy năm 132-AD có tên “Bar Kochba” khiến vua Hadrian phải trục
xuất dân Jews đi Ai-cập, Bắc Phi và châu Âu; trong số đó có 600,000 bị giết.
Năm 1948, quân Jordan đuổi giết dân Jews mới trở về cố quốc từ các nơi đó. Ngày
10/6/1967 trong trận chiến “Sáu Ngày”, quân Israel của Moshe Dayan đã chiếm lại
được Jerusalem sau hơn 2,000 năm bị mất!
Quả đây là một tài liệu lịch sử mới
nhất (xuất bản năm 2013); được cập nhật hóa để trở thành một quyển cẩm nang Triết
học, Sử học và cẩm nang Kinh Thánh quý báu; giúp mọi người, nhất là độc giả Việt
ngữ không phân biệt tín ngưỡng “ôn cố tri tân”: Đoạn “Tại dinh Annas hôm thứ
sáu 7/4 năm 30-AD, Jésus bị tra tấn nhưng vẫn khẳng khái hỏi Annas “nếu tôi nói
sai, hãy cho biết sai điều gì; mà nếu tôi nói sự thật thì sao lại đánh tôi?”,
“tôi nói công khai không bí mật sao lại hỏi tôi. Hãy hỏi những người đã nghe
tôi nói”. Cuộc khảo cung này bất hợp pháp vì diễn ra ban đêm, tại nhà riêng và
không luật sư bênh vực; cả việc điệu Jésus đến hội đồng Sanhedrin xét xử cũng bất
hợp pháp theo luật Do-thái” (trang 226) nghe quen quen tựa lời của một tội nhân
khác; tuy tầm vóc nhỏ bé hơn và xứ sở xa xôi hơn, nhưng tội danh nào có khác
chi: Nhạc sĩ Việt Khang Võ Minh Trí trong bài “Anh Là Ai?“. Tội nhân Việt Khang
hỏi “Xin hỏi anh là ai; sao bắt tôi; tôi làm điều gì sai? Xin hỏi anh là ai;
sao đánh tôi chẳng một chút nương tay?. . . .”. Từ đó mà biết chân tướng các
“Annas, Caiaphas thời đại” -gian hùng, hiểm ác và láu cá gấp nhiều lần- ấy là
ai. Hội đồng đảng ủy “Sanhedrin” ấy ở đâu. Cuộc khảo cung diễn ra nơi nào; ban
ngày hay ban đêm, nơi công cộng hay trong bốn bức tường kín, có luật sư thật
bênh vực không? Thống đốc “Pilate” nào; ngồi trong Đại Sứ Quán nào dính máu
chùi tay? Điều đáng nhớ là Annas, Caiaphas và Pilate đã chết hẳn; đế quốc Roma
đã sụp đổ vĩnh viễn nhưng Jésus đã sống lại cùng với triết thuyết nhân ái của
ngài!
HÀ BẮC
Subscribe to:
Posts (Atom)